Trong bài thơ “Bài ca mùa xuân 1961” nhớ đến tác giả Nguyễn Du và “Truyện Kiều”, nhà thơ Tố Hữu viết: “Trải qua một cuộc bể dâu… Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”. Hãy giải thích và dựa vào “Truyện Kiều” để chứng minh ý thơ trên
Tác phẩm Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du đã ra đời hơn một trăm năm nay mà vẫn như còn sức sống, vẫn gợi trong lòng người lòng xót thương đối với người phụ nữ xưa. Trong bài thơ Bài ca mùa xuân 1961 nhớ đến Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều, Tố Hữu viết:
Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình
Nổi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều
Qua tác phẩm của mình, Nguyễn Du đã khái quát lên nỗi đau của con người trong xã hội phong kiến qua hình tượng Thuý Kiều với cuộc đời lênh đênh trôi nổi. Trải qua những biến đổi trong cuộc sống (cuộc bể dâu), những lời thơ của Nguyễn Du còn đọng lại một nỗi đau về nhân tình thế thái, về cuộc đời của con người dưới xã hội đầy rẫy xấu xa. Ngay khi mở đầu Truyện Kiều, đại thi hoà đã khái quát:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Chứng kiến cuộc sống thay đổi nương dâu thành bể xanh, đau đớn cho mỗi cuộc đời, nên mỗi câu thơ của Nguyễn Du còn đọng nỗi đau nhân tình. Đó là nỗi đau của con người trong xã hội bất công tàn ác. Nỗi đau đó được Nguyễn Du thể hiện rõ nhất qua hình ảnh Thuý Kiều với cuộc đời nổi chìm kiếp sống lênh đênh, đó là cuộc đời mười lăm năm đoạn trường, bị vùi dập của Thuý Kiều.
Là một người con gái tài sắc vào bậc nhất, lại được sinh ra trong gia đình gia giáo, những tưởng cuộc đời Thuý Kiều xuôi chèo mát mái, có ai ngờ Kiều phải trôi nổi suốt mười lăm năm ròng rã. Nguyên nhân cũng bởi đồng tiền trong lòng tham của những kẻ có thế lực. Đồng tiền đã chi phối toàn xã hội. Chỉ vì một lời tố cáo vu vơ mà bọn quan lại, sai nha bắt bớ Vương ông và Vương Quan rồi hành hạ để đòi đút lót:
Tính bài lót đó luồn đây
Có ba trăm lạng việc này mới xong.
Chúng lộng hành, nấp dưới bóng triều đình mục nát để vơ vét, mà lại vơ vét một cách công khai, trắng trợn đầy bỉ ổi:
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
Chưa thỏa được lòng tham, chúng còn đánh đập cha và em Thuý Kiều. Thương cha già, thương em dại, Thuý Kiều đành bán mình để có tiền chuộc. Kiều không chỉ bán mình, mà còn dứt cả mối tình chớm nở cùng Kim Trọng. Nàng đau đớn thốt lên:
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi nhỡ nhàng.
Nàng oán trách số phận mình, đau đớn cho mối tình không trọn vẹn, xót xa thay cho cha và em. Nàng đành phải ra đi cùng với Mã Giám Sinh, kẻ đã bỏ ra hơn bốn trăm lạng vàng để mua nàng. Sa chân vào lầu xanh, Kiều nhất quyết giữ trọn danh dự, phẩm hạnh, thế nhưng Kiều lại mắc mưu Tú Bà, nàng đành chua xót thốt lên:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.
Thật cay đắng làm sao cho số phận của người con gái, ngay cả cái trinh bạch, trong trắng mà cũng phải xin chừa, không dám giữ. Cái xã hội ấy mới thật là độc địa cay nghiệt, cho nên con người cứ mãi mãi đau thương.
Thế rồi Thuý Kiều gặp Thúc Sinh, thoát khỏi chốn lầu xanh ô nhục, nàng lại sa vào nanh vuốt của Hoạn Thư, người đàn bà mà nói điều ràng buộc thì tay cũng già. Trong cơn ngứa ghẻ hờn ghen, Hoạn Thư đày đoạ Kiều về tinh thần, chia rẽ Kiều với Thúc Sinh, khiến cho chính Kiều cũng phải bàng hoàng, ngơ ngẩn:
Rõ ràng thật lứa đôi ta
Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi.
Rồi thương tình Kiều và cũng để cắt đứt tình nghĩa của Kiều với Thúc Kỳ Tâm, Hoạn Thư đưa Kiều ra Quan Âm Các để giữ chùa chép kinh. Hoạn Thư – một đại diện cho tầng lớp quyền thế – đã tước đoạt cuộc sống bình thường của Kiều, tước đoạt của Kiều cái quyền được yêu thương, giam lỏng Kiều vào cửa Phật:
Đưa nàng đến trước Phật đường
Tam qui ngủ giới cho nàng xuất gia
Áo xanh đổi lấy cà sa
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Truyền.
Thế đó, những kẻ có quyền trong xã hội có thể quyết định được cả số phận, tên tuổi và cả cuộc đời của con người ta. Tất cả bọn chúng, từ viên quan, bọn sai nha, Tú Bà, Sở Khanh… đều cùng một ruột, cùng a dua vùi dập kẻ thế cô, xô đẩy cuộc đời của con người đến tận vực thảm, bởi vì:
Trong tay đà sẵn đồng tiền
Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì.
Đồng tiền dơ bẩn là nguyên nhân tất cả. Chính đồng tiền ấy làm bậc thanh quyền lực, làm cán cân của công lí. Sau bao ngày tháng tủi nhục ê chề Kiều gặp được Từ Hải, đời tưởng như đã hết truân chuyên, đã hết trôi nổi, bơ vơ, bởi vì Từ Hải thực sự quí trọng Kiều, quí trọng cái phẩm giá cao đẹp mà xã hội không tước đoạt được của nàng. Tưởng chừng như:
Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.
Là mãi mãi bên nhau. Nào ngờ đâu Hồ Tôn Hiến, một viên tổng đốc trọng thần lại dùng lễ vật xảo trá dụ dỗ khiến cho Kiều xiêu lòng khuyên Từ Hải ra hàng. Từ Hải chết, đời Kiều lại chìm vào tăm tối quá đau đớn, tuyệt vọng nàng đành phải tự tử.
Cuộc đời Thuý Kiều mà Nguyễn Du đã gói gọn trong hai câu:
Hết nạn nọ, đến nạn kia
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.
Không phải chỉ của riêng những Thuý Kiều, Đạm Tiên mà còn là của những con người không quyền lực, không tiền tài trong xã hội đầy bất công. Cái xã hội thối nát chịu sự điều khiển của một kẻ giấu mặt: đồng tiền. Con người, đặc biệt là người phụ nữ sống trong xã hội mà ngay cả quyền tự do, được yêu thương, được sống cũng bị tước đoạt. Những kẻ tước đoạt ấy là những kẻ không có trái tim với dòng máu nóng, mà chỉ có những đồng tiền lạnh lẽo, chúng tra tấn cha, con Thuý Kiều:
Rường cao rút ngược dây oan
Dẫu rằng đá cũng nát gan lọ người.
Ngay cả đá cũng phải mủi lòng, vậy mà bọn chúng vẫn cứ trơ trơ hơn đá.
Trong cái xã hội rối ren, suy đồi đó, nhân vật Từ Hải nổi lên như một vị cứu tinh cho những cuộc đời cực khổ, vậy mà lại phải nhận lấy cái chết, dù cho là cái chết hiên ngang:
Trơ như đá, vững như đồng
Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng rời.
Trong cái xã hội đen bạc đó, ngay cả cửa Phật từ bi cùng không cứu vớt được đời Kiều, không giúp cho Kiều thoát khỏi vòng lẩn quấn xoay vòng của nhục nhã, đau thương.
Chính tất cả những cái đó đã đọng lại vào thơ của Nguyễn Du, đọng lại tất cả nỗi đau nhân tình thế thái, nỗi đau của những cuộc đời. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Du đã chứng kiến cảnh người kĩ nữ mua vui cho bọn quan lại trong triều đình khi cô gái đó đang để tang. Vì vậy, Nguyễn Du đã thương xót cho Thuý Kiều. Nhiều lúc, nỗi thương xót đó bật lên thành lời trực tiếp. Khi Thuý Kiều bị Tú Bà đánh đập, Nguyễn Du đã xót xa:
Xót thay đào lí một cành
Một phen mưa giá tan tành một phen.
Nguyễn Du thương cho người con gái vì cảnh nhà, vì đạo hiếu làm con mà chấp nhận lấy đau thương riêng một mình. Rồi khi Thuý Kiều sa vào lầu xanh ở Châu Thai, Nguyễn Du đã căm tức:
Chém cha cái số hoa đào
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi.
Nhà thơ đã nguyền rủa cái xã hội bất công đã đẩy Kiều vào chốn ô nhục.
Ông đã thét lên với tất cả những căm phẫn của mình dồn nén bấy lâu nay. ông lại thương cho Thuý Kiều khi nàng tự tử:
Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi.
Thương Thuý Kiều bao nhiêu, Nguyễn Du căm ghét xã hội bạc ác hại người bấy nhiêu, ông vừa xuýt xoa thương xót Thuý Kiều, lại vừa oán giận:
Hồng quân với khách hồng quần
Đã xoay đến thế còn vần chưa tha.
Truyện Kiều của Nguyễn Du là thế đó, vừa là nỗi đau của cuộc đời, vừa là nỗi thương xót của Nguyễn Du với con người, với thân phận má đào. Chính điều này làm nên giá trị nhân đạo sâu sắc, lớn lao của khúc Đoạn trường tân thanh, khiến cho tiếng thơ Tố Như vượt thời gian đến với chúng ta và muôn đời sau.
Nhà thơ Tố Hữu đã thấu hiểu giá trị nhân đạo sâu xa của Truyện Kiều và tấm lòng hết sức sâu đậm của thi hào Nguyễn Du khi viết: Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình và Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều (Bài ca mùa xuân 1961). Và cuối cùng mối cảm thông và kính trọng sâu sắc ấy, mấy năm sau, Tố Hữu lại viết:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
(Kính gửi cụ Nguyễn Du)
Xem thêm nhiều bài hơn tại : Đề Thi