Phân tích Tiếng mẹ đẻ nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức

0

Contents

Phân tích Tiếng mẹ đẻ – Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức được Đọc tài liệu tổng hợp đầy đủ: dàn ý chung, dàn ý chi tiết và các bài phân tích mẫu cho các em học sinh tham khảo

Đề bài:

Phân tích Tiếng mẹ đẻ – Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức

Đề bài phân tích Phân tích Tiếng mẹ đẻ – Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức của tác giả Nguyễn An Ninh được nhiều bạn đọc quan tâm, không chỉ bởi đây là một tác phẩm mang tính nghị luận ở thời điểm ra đời mà còn có giá trị tới tận bây giờ. Chuyên mục Van mau 11 của Đọc tài liệu cũng đã tổng hợp đầy đủ các nội dung liên quan tới đề bài này: dàn ý chung, dàn ý chi tiết và những bài văn mẫu cho các em học sinh tham khảo để có được bài Phân tích Tiếng mẹ đẻ – Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức

của riêng mình thật ấn tượng.

DÀN Ý CHUNG PHÂN TÍCH TIẾNG MẸ ĐẺ – NGUỒN GIẢI PHÓNG CÁC DÂN TỘC BỊ ÁP BỨC

I. Mở bài

Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm và ý nghĩa của tác phẩm.

II. Thân bài

A. Tác giải

Tác giả: Nguyễn An Ninh (1899 -1943).

– Là nhà báo, nhà văn, nhà yêu nước đầu thế kỉ XX.

– Từ một trí thức Tây học, ông đến với chủ nghĩa Mác và những người cộng sản.

– 1908 bị bắt đày đi Côn Đảo.

– Sự nghiệp và tên tuổi của ông gắn liền với những buổi diễn thuyết.

– Phê phán đạo Khổng – đề cao tinh thần học hỏi văn hoá châu Âu.

– Văn phong khúc chiết, trong sáng, có độ sâu về tư duy văn hoá, tràn đầy nhiệt huyết yêu nước gần gũi với đời sống và con người lao động.

B. Nội dung

1. Phê phán những kiểu học đòi “Tây hoá”

– Bập bẹ xem vài ba tiếng Tây trong lời nói: làm tổn thương tiếng mẹ đẻ và tự bộc lộ là người kém văn hoá.

– Lối sống lai căng từ kiến trúc đến lời ăn tiếng nói. Đó là biểu hiện từ bỏ văn hoá dấu hiệu mất gốc => mất nước

2. Giá trị và vai trò của tiếng nói trong sự nghiệp giải phóng dân tộc

– Tiếng nói rất quan trọng với vận mệnh dân tộc

“tiếng nói ……thống trị”

“tiếng nói là tinh thần của dân tộc… từ chối quyền tự do”

=> Tiếng nói được bảo tồn và phát triển thì nó là nhịp cầu tri thức giúp tiếp xúc nền văn minh, khoa học thế giới, mở mang dân trí.

– Dẫn chứng để chứng tỏ tiếng nước mình không nghèo nàn

+ Ngôn ngữ của Nguyễn Du giàu hay nghèo

+ Tại sao dịch những tác phẩm Trung Quốc mà không viết tác phẩm tương tự.

=> Ngôn ngữ nghèo hay người dùng bất tài.

3. Quan niệm của tác giả về mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước mình với ngôn ngữ nước ngoài

Bên cạnh việc tôn vinh tiếng mẹ đẻ, tác giả còn thấy được vai trò của ngoại ngữ. Người học phải biết một ngoại ngữ để cho đồng bào tiếp cận tri thức nhân loại, đồng thời góp phần bồi đắp làm giàu cho tiếng mẹ đẻ.

C. Nghệ thuật

Luận điểm, luận cứ rõ ràng, lập luận chặt chẽ, sử dụng ngôn ngữ chính luận sắc sảo.

D. Ý nghĩa văn bản

Từ mối tương quan giữa tiếng mẹ đẻ và nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức, bài viết đã thể hiện lập trường dân tộc và yêu nước của Nguyễn An Ninh. Ngày nay, tư tưởng ấy vẫn còn nguyên giá trị.

III. Kết luận

Bài viết bàn về hiện tượng lai căng ngoại ngữ lúc đó và khẳng định tiếng Việt ta rất giàu có, cần được bồi đắp cho phong phú.

Phân tích Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức

DÀN Ý CHI TIẾT PHÂN TÍCH TIẾNG MẸ ĐẺ – NGUỒN GIẢI PHÓNG CÁC DÂN TỘC BỊ ÁP BỨC

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Nguyễn An Ninh và tác phẩm “

II. Thân bài

Đầu tiên, tác giả nên lên hiện tượng học đòi Tây hóa của nhiều người dân An Nam.

Tác giả phê phán những người An Nam “ thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình.” Ông cho rằng đó là thói học đòi, họ thể hiện đẳng cấp quý tộc của mình, họ nghĩ làm như vậy họ sẽ được đồng bào tin là họ được đào tạo từ Tây phương. => Đó là biểu hiện của sự kém văn hóa, là thái độ mù tịt về văn hóa Châu Âu.

Những người học đòi nhưng lại không có kiến thức gì về văn hóa Tây Âu, thái độ mù tịt. Những thứ “lai căng” ấy chứng tỏ người An Nam bị Tây hóa chẳng có được một thứ văn minh nào.

Nhiều người để biện minh bào chữa cho thói học đòi này, cho việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Họ than phiền, trách móc đổ lỗi rằng “nước mình nghèo nàn”. Đó là lời biện minh không có một căn cứ nào xác đáng cả. Vì họ không có tinh thần học hỏi, tìm tòi, chỉ biết những từ thông dụng. Vậy thì chính họ mới là những người nghèo ngôn ngữ.

Từ đó, ông nói lên vai trò quan trọng của tiếng mẹ đẻ đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Theo tác giả, với ông “tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị”

=> Ông đề cao tiếng nói dân tộc, có vai trò vô cùng quan trọng đối với vận mệnh dân tộc. Nếu chúng ta biết trân trọng ngôn ngữ, hãnh diện tự hào và ra sức làm phong phú dồi dào hơn cho ngôn ngữ, tiếng nói thì việc An Nam được giải phóng thì chuyện có thể xảy ra. Nếu từ chối tiếng mẹ đẻ thì đồng nghĩa với việc từ chối sự tự do của mình. Tiếng nói được bảo tồn và phát triển thì nó là nhịp cầu tri thức giúp giao lưu nền văn minh khoa học thế giới, mở mang hiểu biết, nâng cao dân trí.

Tác giả chứng minh tiếng Việt không nghèo nàn. Ông đưa ra nhiều chứng cứ thuyết phục rằng tiếng nước mình rất phong phú, không nghèo nàn. Người ta chỉ biết những từ thông dụng, hay gặp mà không chịu đào sâu tìm hiểu. Ông đưa ra minh chứng là ngôn ngữ của đại thi hào Nguyễn Du. Ông đặt câu hỏi: “Ngôn ngữ của Nguyễn Du nghèo hay giàu?”

Người An Nam có thể dịch hàng ngàn tác phẩm Trung Quốc sang tiếng nước mình, nhưng lại không thể viết những tác phẩm tương tự như vậy. => Đó là sự bất tài của con người hay đổ lỗi cho ngôn ngữ nghèo.

Tác giả chỉ rõ thái độ vô trách nhiệm, thái độ phủ nhận mộ chiều của những người cam tâm làm nô lệ, chấp nhận làm tay sai cho thực dân. Chê bai đất nước một cách thụ động, nông cạn, đơn giản, một chiều sẽ dẫn tới thái độ khinh rẻ đất nước, dẫn tới sự tự ti dân tộc. Từ đó ông nêu lên mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước ngoài ngôn ngữ nước mình.

Tác giả không phủ nhận hoàn toàn tầm quan trọng của ngôn ngữ châu Âu, vì ta đang hội nhập, hướng đạo, nên tiếp thu nền văn hóa của Tây Âu để mình hiểu thêm và làm giàu hơn cho ngôn ngữ nước mình. Việc đó hoàn toàn không kéo theo chuyện từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Điều cốt yếu nhất là ngôn ngữ của nước mình.

– Việc lập luận vô cùng chặt chẽ dẫn dắt vấn đề làm nên tính thuyết phục cho tác phẩm.

=> Tác giả thức tỉnh mọi người dân phải biết trân trọng, bảo vệ tiếng mẹ đẻ. Sự bảo bệ ấy không phải ngày một ngày hai mà phải thường xuyên mỗi ngày. Có ý thức trau dồi bổ sung cho ngôn ngữ thêm phong phú, hoàn thiện vốn từ ngữ dân tộc. Dùng tiếng mẹ đẻ để chuyển tải những học thuyết tiếng bộ về đạo đức và khoa học để mở đường đi lên cho thời đại mới của dân tộc.

III. Kết bài:

Từ những suy luận logic, tác giả đã thuyết phục người đọc về những quan điểm mình đưa ra. Để mọi người có ý thức hơn, bảo vệ tiếng mẹ đẻ cũng chính là bảo vệ Tổ quốc, yêu nước.

Từ những dàn ý chung và dàn ý chi tiết về Phân tích Tiếng mẹ đẻ – Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức của tác giả Nguyễn An Ninh, các em học sinh kết hợp tham khảo thêm phần Soạn bài Tiếng mẹ đẻ – Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức

VĂN MẪU PHÂN TÍCH TIẾNG MẸ ĐẺ – NGUỒN GIẢI PHÓNG CÁC DÂN TỘC BỊ ÁP BỨC

Đoạn trích mở đầu bằng sự phê phán thói “thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình “. Đây là kiểu học đòi nói tiếng Pháp thường được gọi là kiểu Pháp bồi, chỉ chuyên đi ” cóp nhặt những cái tầm thường ” để tạo ra một hình thức để bắt buộc những người khác “tin là họ đã tạo theo kiểu Tây phương”. Những người học đòi theo kiểu bồi đó không hiểu được rằng họ không những không đủ trình độ hiểu biết cần thiết mà cũng không thể hiểu được đầy đủ chính xác các nền văn hóa “ngoại bang ” khác. Nguyễn An Ninh gọi điều đó là “Thái độ mù tịt về văn hóa châu Âu”. Ông phê phán cách học như vậy và chỉ ra sự lai căng mà những kẻ ” Tây học” kiểu đó cố tình tạo ra : “Những kiểu kiến trúc và trang trí lại căng của những ngôi nhà thuộc về những người An Nam được hun đúc theo cái mà những người ở Đông Dương gọi là văn minh Pháp, chứng tỏ rằng những người An Nam bị Tây hóa chẳng có được một thứ văn minh nào”.

Hệ quả của việc làm đó là: “Việc từ bỏ văn hóa cha ông và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng”.

Tiếp đó, Ông phân tích bản chất của tiếng mẹ đẻ, của ngôn ngữ dân tộc. Ông chỉ ra lợi ích thiết thực của việc bảo vệ tiếng mẹ đẻ, của việc dùng tiếng mẹ đẻ: “Tiếng nói là lời bảo vệ quý báo nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị”. “Vì thế, đối với người An Nam chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với từ chối sự tự do của mình”. Vì sao lại thế ? Bởi vì : “Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian”. Như vậy, học châu Âu không phải để thu được vài tiếng bồi mà là tiếp thu khoa học, các học thuyết lớn, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để tìm ra con đường đi thích hợp cho dân tộc mình, là lấy lí luận của phương Tây để phản bác lại phương Tây.

Ông chỉ trích những người chê bai tiếng Việt nghèo nàn và chỉ rõ những lời trách cứ như vậy đều không có cơ sở. Bởi vì những người đó : “Họ chỉ biết những từ thông dụng của ngôn ngữ và còn nghèo những từ An Nam hơn bất cứ người phụ nữ và nông dân An Nam nào. Ngôn ngữ của Nguyễn Du nghèo hay giàu?” Từ đó ông đưa ra câu hỏi buộc những người có lương tâm với dân tộc đều phải suy nghĩ : “Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người ?”

Ở đây, ông chỉ rõ thái độ vô trách nhiệm, thái độ phủ nhận một chiều của những người cam tâm làm nô lệ, chấp nhận làm tay sai cho thực dân, bởi lẽ chê bai đất nước một cách thụ động, giản đơn, một chiều, sẽ dẫn tới thái độ khinh rẻ đất nước, dẫn tới sự tự ti dân tộc.

Từ đó, ông chủ trương học người để làm cho mình lớn lên: “Chúng ta không tránh né châu Âu, vai trò hướng đạo của giới trí thức chúng ta buộc họ phải biết ít nhất là một ngôn ngữ châu Âu để hiểu được châu Âu. Nhưng những kiến thức thu thập được, họ không phải giữ riêng cho mình. Đồng bào của họ cũng phải được thông phần nữa. Tuy nhiên, sự cần thiết phải biết một ngôn ngữ châu Âu hoàn toàn không kéo theo chuyện từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Ngược lại, thứ tiếng nước ngoài mà mình học được phải làm giàu cho ngôn ngữ nước mình”. Thực tiễn của mấy chục năm sau khi đất nước độc lập đã chứng minh điều mong muốn này của Nguyễn An Ninh. Từ đây, việc bảo vệ tiếng mẹ đẻ và việc tiếp thu văn hóa nước ngoài không hề loại trừ nhau hay mâu thuẫn nhau mà bổ sung cho nhau.

Nổi bật lên ở đây là nghệ thuật lập luận dẫn dắt vấn đề. Trước hết, cũng cần nói tới khả năng của tư duy lí tính theo mô hình tư duy phương Tây, đặc biệt là kiểu hình tư duy khoa học của người Pháp mà tác giả Nguyễn An Ninh đã tiếp thu được từ nhà trường Pháp, cũng có đóng góp quan trọng cho việc nhìn nhận và lí giải vấn đề tiếng mẹ đẻ này. Tiếp đó, tác giả lần lượt đề cập đến các khía cạnh khác nhau của vấn đề tiếng mẹ đẻ và đặt ra trách nhiệm chung cho toàn xã hội, đặc biệt cho những người có học, những người Tây học, là phát triển hơn nữa tiếng mẹ đẻ, tiếng nói chung của dân tộc. Bảo vệ tiếng mẹ đẻ không chỉ dừng lại ở mức độ biết hoặc thường xuyên sử dụng tiếng mẹ đẻ mà phải làm cho tiếng mẹ đẻ đó phát triển đi lên, bằng cách tiếp nhận các khái niệm mới, bổ sung, hoàn thiện vốn từ ngữ của dân tộc, dùng tiếng mẹ đẻ để chuyển tải những học thuyết tiến bộ về “đạo đức và khoa học” để mở đường đi lên cho dân tộc.

Việc lập luận chặt chẽ này có tính thuyết phục cao bởi đối tượng quan trọng mà tác giả hướng tới là đội ngũ trí thức Tây học, nhằm thức tỉnh họ, đặt họ trước nhiệm vụ lịch sử của dân tộc. Do đó, việc bảo vệ tiếng mẹ đẻ cũng chính là một hành động yêu nước, thương nòi.

Với đề bài Phân tích Tiếng mẹ đẻ – Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức bao gồm đầy đủ, các em học sinh cần tìm hiểu kĩ càng để từ đó có thể xây dựng cho mình một bài phân tích tác phẩm nghị luận thật hay và ý nghĩa.

Xem thêm nhiều bài hơn tại : Đề Thi

Leave a comment