Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
Contents
Chế Lan Viên (1920-1989) là nhà thơ có phong cách rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng triết lý. Chất suy tưởng triết lý mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tác bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa. “Tiếng hát con tàu” là bài thơ đặc sắc của Chế Lan Viên in trong tập “Ánh sáng và phù sa” viết nhân cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc những năm 1958-1960. Đây chính là tiếng hát say mê, hăm hở, lạc quan phấn chấn của tâm hồn tràn đầy khát vọng mong mỏi xây dựng đất nước và tìm về với ngọn nguồn sáng tạo thơ ca của thi sĩ. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm mà dethihsg247 đã tổng hợp trong bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn nội dung này.
Bài văn phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu số 1
Những người yêu thơ Việt Nam không ai là không biết đến Chế Lan Viên. Thơ Chế Lan Viên coa phong cách độc đáo: có vẻ đẹp trí tuệ, luôn có ý thức khai thác triệt để những tương quan đối lập, giàu chất suy tưởng triết lý với thế giới hình ảnh đa dạng phong phú, đầy sáng tạo. Tập thơ xuất sắc, kết tinh tư tưởng và nghệ thuật thơ Chế Lan Viên trên con đường thơ cách mạng là “Ánh sáng và phù sa”(1960). Và bài thơ “Tiếng hát con tàu” được rút từ tập thơ này.
“Tiếng hát con tàu” được gợi cảm hứng từ một sự kiện kinh tế – chính trị, xã hội: cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc vào những năm 1958 – 1960. Bài thơ trước hết gây ấn tượng bởi bốn câu lời đề từ:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”.
Bốn câu thơ làm lời đề từ xuất hiện ngay sau nhan đề với nhiệm vụ thể hiện tư tưởng, cảm xúc bao trùm toàn tác phẩm. Với kết cấu là một khổ thơ lối hỏi – đáp, lời đề từ đã tỏ rõ khát vọng đi xa, đi đến bất kỳ nơi đâu khi Tổ quốc cần. “Tây Bắc” trong khổ thơ vừa để chỉ địa danh vừa để tượng trưng cho những vùng đất xa xôi. “Con tàu” là biểu tượng cho khát vọng đi xa để hiến dâng, phục vụ. Để vận động cho khát vọng ấy là những lời mời gọi lên tàu.
Tác giả sử dụng những câu hỏi tu từ vừa tăng tính hối thúc giục giã, vừa thể hiện sự bâng khuâng không biết đi hay ở: “Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?”. Câu hỏi tu từ này vừa để hỏi tác giả vừa để hỏi mọi người. Sau khi hỏi, nhà thơ lại đưa ra hoàn cảnh đối lập: “bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội”.
Nhưng đối với quan niệm:”chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép” Chế Lan Viên đã khẳng định được mối quan hệ giữa văn học và cuộc đời. Văn học phải gắn liền với cuộc đời, ta phải mở lòng với cuộc đời. Một hồi đắn đo băn khoăn lên tàu đến Tây Bắc, cảnh sắc, mảnh đất Tây Bắc đã hiện ra trước mắt người đọc.
Nhà thơ đã dùng ngòi bút của mình để ngợi ca “xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng”. Mảnh đất đã thấm “máu rỏ” này lần nữa hồi sinh trở lại “chín trái đầu xuân”. Một sự sống mới bắt đầu sau mười năm kháng chiến. “Mười năm qua như ngọn lửa”. Tác giả so sánh mười năm ấy như ngọn lửa nối sáng không chỉ dân tộc Việt Nam mà còn soi đường đi đến thắng lợi.
Ngọn lửa ấy còn trường tồn vĩnh cửu với thời gian:” nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường”. Hình ảnh đặc biệt xuất hiện trong khổ thơ này là “Mẹ yêu thương”. Mẹ ở đây chính là mảnh đất Tây Bắc, là những bà mẹ Việt Bắc, bà mẹ của Tổ quốc. Cách xưng hô “con” đã thể hiện sự kính trọng và khát vọng được trở về với nhân dân của tác giả.
Một trong những nét đặc sắc nội dung của bài thơ này là khái niệm “nhân dân”. Dưới lời thơ của Chế Lan Viên, “nhân dân” hiện lên rất gần gũi. Trước hết là những hình ảnh so sánh liên tiếp: dòng suối mát lành đón “nai về suối cũ”, hơi ấm mùa xuân cho cỏ rụi bật mầm, ánh thiều quang cho én bầy chao liệng, bầu sữa ngọt ngào cho bé thơ đói lòng, và cánh tay nhẹ đưa nôi mềm cho giấc ngủ say.
Những hình ảnh rất đỗi quen thuộc này đã khiến cho khái niệm “nhân dân” trừu tượng trở nên dễ hiểu. Nhân dân vừa là vật chất, vừa là tinh thần. Trở về với nhân dân là hoàn toàn hợp lý, đúng lẽ tự nhiên. Mặc dù đoạn thơ giàu chất triết lý nhưng đậm chất trí tuệ không những không khô khan mà còn giàu hình ảnh.
Nhân dân không chỉ được miêu tả bởi những hình ảnh đẹp mà còn là những con người quen thuộc: “người anh du kích” nhường cơm xẻ áo, là “mế” – bà mẹ Việt Nam anh hùng, những người mẹ nuôi cán bộ “mùa dài”; nhân dân là “người em liên lạc” mưu trí dũng cảm; là người em “vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng – đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch – bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”. Nhân dân là những con người sống nghĩa tình thủy chung.
Trong tác phẩm này, Chế Lan Viên còn nêu ra triết lý đó là nỗi nhớ trong tình yêu. Trong tình yêu, nỗi nhớ như quy luật của đất trời như “đông về nhớ rét”. Tình yêu đẹp và cao quý như “cánh kiến hoa vàng”. Tình yêu còn có khả năng làm con người thay đổi “như xuân đến chim rừng lông trở biếc”. Tình yêu ấy còn có khả năng diệu kỳ hơn đó là “đất lạ hóa quê hương”.
Tình yêu có thể khiến những người đang yêu yêu lấy một mảnh đất hoàn toàn xa lạ, yêu mảnh đất ấy như chính quê hương của mình. Trong thơ Chế Lan Viên luôn chứa đựng triết lý như thế. Không chỉ là nỗi nhớ trong tình yêu Chế Lan Viên còn nhớ cảnh vật. Tác giả nhớ đến những cảnh vật quen thuộc mang nét đặc trưng của vùng đất Tây Bắc “nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ – Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”.
Bằng nỗi nhớ này, nhà thơ còn thể hiện khát vọng trở về với nhân dân, trở về với những kỉ niệm nghĩa tình để đền ơn đáp nghĩa.Kết thúc bài thơ là một khổ thơ như lời vận động:
“Lấy cả những cơn mơ!
Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân”.
Tiếng gọi đất nước của nhân dân của đời sống trở thành sự hối thúc bên trong, trở thành lời giục giã của chính lòng mình. Đến với Tây Bắc là về với chính mình, tìm lại chính mình “Nay trở về lấy lại lòng ta”. Đến với Tây Bắc là về với ngọn nguồn của hồn thơ, của cảm hứng sáng tạo: “Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ”. Khổ thơ sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ độc đáo làm cho khổ thơ càng thêm tính gợi hình và gợi cảm, có chiều sâu và chạm đến trái tim người đọc.
Những lời bộc bạch của Chế Lan Viên trong tác phẩm “Tiếng hát con tàu” đã cho người đọc thấy được những hình ảnh tốt đẹp của Tây Bắc – nơi không chỉ có cảnh sắc và tình người, nơi ấy còn là cảm hứng của thi ca. Mang trong mình sức hấp dẫn ấy, Tây Bắc đã đại diện cho những vùng đất xa xôi nhưng tràn đầy hi vọng. Bằng nhiệt huyết của mình, Chế Lan Viên đã đưa người đọc đến gần với Tây Bắc hơn và đã góp phần vận động họ xây dựng kinh tế ở nơi này.
Bài văn phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu số 2
“Tiếng hát con tàu” dắt nẻo hồn ta, khi náo nức hăm hở, khi bâng khuâng xao xuyến và tràn ngập hạnh phúc được đến với Tây Bắc, đến với “xứ thiêng” của Tổ quốc để tận hưởng dư vị ngọt ngào của tình yêu quê hương đất nước. Có đọc thơ Chế Lan Viên trước cách mạng tháng Tám – một đài thơ “lẻ loi bí hiểm” bởi thế giới nghệ thuật đầy hình ảnh kinh dị với “cảnh ngàn thu cây lả ngọn, muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi”, với những “huyết sọ”, “tuỷ não” của “thế giới điêu tàn”…, thì mới thấy “Tiếng hát con tàu” là hành khúc mới mẻ của tâm hồn đang được thanh xuân trong “ánh sáng và phù sa” của cuộc đời mới.
Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh “cả nước lên đường” sau những năm dài chiến tranh và đói nghèo. Niềm vui lớn của cuộc đời đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho sáng tác nghệ thuật. Điều đó đặc biệt có ý nghĩa đối với các văn nghệ sĩ lãng mạn đã trở một thời “đi trốn”, ẩn náu vào “cái tôi” cá nhân sầu mộng, xa lánh thực tại cuộc đời, nay trở về sống giữa nhân dân trong vận hội mới “phá cô đơn, ta hoà hợp với người”. Nhà thơ Chế Lan Viên đã ghi đề từ cho bài thơ bằng bốn câu thơ hàm súc:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”.
Cả bài thơ là hành trình của con tàu tâm hồn mang khát vọng lên đường, là cuộc hoá thân kì diệu của hồn thơ lãng mạn giữa cuộc đời giàu ý nghĩa, đồng thời còn là cuộc trở về với chính tâm hồn thơ của mình trong cuộc sống rộng lớn của nhân dân. Có riêng gì Tây Bắc, một vùng đất rộng lớn giàu tiềm năng của Tổ quốc đang vẫy gọi, khi khát vọng cuộc sống mới trong lòng đã hoá những con tàu tốc hành mang năng lượng của tình yêu đất nước.
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát, thì tâm hồn thi sĩ cũng là một vùng đất phì nhiêu với những tiềm năng mới đang khát khao được giao cảm được đem lại hương thơm trái ngọt cho cuộc đời: “Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”.Thực tế, chưa có một đường tàu cụ thể và con tàu cụ thể lên Tây Bắc. Sáng tạo hình tượng “con tàu” và “Tây Bắc”, nhà thơ đã thể hiện dụng ý nghệ thuật sâu xa.
“Tây Bắc” không chỉ là địa danh xa xôi của Tổ quốc mà còn là biểu tượng cuộc sống rộng lớn của nhân dân, là cội nguồn cảm hứng của văn học nghệ thuật. Và “Con tàu” trở thành biểu tượng cho tâm hồn nhà thơ đang khao khát thoát khỏi cuộc sống chật hẹp quẩn quanh để đến với nhân dân, đến với cuộc sống.Thơ ca không chỉ là sản phẩm của tâm hồn người nghệ sĩ, mà còn là sản phẩm của hoàn cảnh.
Vì vậy bài thơ “Tiếng hát con tàu” không thể có được khi hoàn cảnh lịch sử không tạo ra những tiền đề, gợi ý mách bảo nhà thơ. Công cuộc kiến thiết đất nước những năm đầu của kế hoạch năm năm lần thứ nhất đã vạch ra định hướng lớn xây dựng chủ nghĩa xã hội, đánh thức dậy ý thức tự chủ của con người, nhiều bài thơ cùng thời là những biểu hiện sinh động của tiếng hát mang khát vọng ra đi dựng xây đất nước. Đặt tên cho bài thơ bằng hình tượng “Tiếng hát con tàu” còn là sự biểu đạt tiếng gọi của hồn thơ:
“Đất nước mênh mông đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”…
“Con tàu” vừa là sự hoá thân, vừa là sự phân thân, của cái tôi trữ tình nhà thơ. Khi là con tàu mời gọi lên đường: “Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng”? “Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?” Khi lại là con tàu mơ mộng chứa chất nỗi niềm, khát vọng lãng mạn: “Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng”, “Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội”, “lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng”…
Đọc bài thơ này, ta lại bắt gặp cá tính sáng tạo nghệ thuật trong phong cách thơ Chế Lan Viên. Những hình ảnh thơ luôn tạo nên những liên tưởng bất ngờ, thú vị giúp người đọc nhận ra những giá trị mới mẻ của cuộc sống, qua những từ ngữ tinh tế gợi cảm, đậm đà chất triết lí ý vị mà sâu xa. “Khi lòng ta đã hoá những con tàu”, thì con tàu tâm hồn ấy chở nặng, chất đầy những toa thương, toa nhớ:…
“Con nhớ anh con, người anh du kích…
Con nhớ em con, thằng em liên lạc….
Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc….
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét….
Nhớ bản sương dăng nhớ đèo mây phủ.
Tình cảm nhớ thương ấy sẽ lấp kín những khoảng cách của thời gian và không gian, đưa ta vượt qua những thác ghềnh của thử thách tâm lí và mặc cảm trước cuộc đời. Không có nơi nào trên Tổ quốc này là xa xôi nữa, không có thử thách nào ngăn giữ lòng ta đến với cuộc đời.
Đúng như nhà thơ đã có lần tâm sự, cuộc trở về của nhà thơ “từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui”. Có ai ngờ chính Chế Lan Viên đã có một cuộc đời thơ “đi trốn” xa lánh thực tại đến cực đoan (thuở “Điêu tàn”):
– “Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi, muôn cánh rã
Về đây đem chắn nẻo xuân sang!”…
lại là một Chế Lan Viên rưng rưng xúc động khi trở về với cuộc đời thực, với tất cả sự ấp iu, trìu mến trân trọng giá trị mới mẻ của cuộc sống nhân dân:
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng, hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”.
“Gặp lại nhân dân” là trở về cội nguồn sự sống, trở về với niềm vui thanh xuân tâm hồn, về với năng lượng mới của cảm hứng, với lòng nhân ái bao dung độ lượng vô biên. Những hình ảnh so sánh, ẩn dụ tầng tầng lớp lớp để diễn tả cho hết ý nghĩa sâu sắc cuộc “phục sinh” tâm hồn của thi sĩ lãng mạn. Tất cả những ý nghĩa cao đẹp ấy trở thành nguồn cảm xúc thiêng liêng, cất lên tiếng hát dạt dào cảm xúc.
Nhà thơ đột nhiên phát hiện:“Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ”.Khi tâm hồn nhà thơ đã lắng lọc cảm xúc từ cuộc đời thì biết bao kỉ niệm xôn xao hiển hiện trong lòng. Đây không phải là lần đầu tiên Tổ quốc lên tiếng hát gọi ta về Tây Bắc. Những năm tháng qua, theo tiếng gọi của Tổ quốc, bao thế hệ đã vượt thác băng rừng vào chiến dịch “Chín năm làm một Điện Biên – Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” (Tố Hữu).
Còn giờ đây là tiếng hát gọi ta về với “Mùa nhân dân, giăng lúa chín rì rào” để lấy lại giấc mơ xưa, lấy lại những tâm hồn, những tấm lòng vàng một thời đau trong lửa… Tiếng hát ấy ngân nga xao xuyến ân tình, thức dậy trong lòng ta tình yêu quê hương đất nước:
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng,
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương”.
Vị ngọt ngào của tình yêu cũng như cái rét ngọt lúc đông về, không có rét sao gọi mùa đông. Nỗi “nhớ em” trở nên giàu ý nghĩa, “tình yêu ta” càng trở nên quý giá, sống động và thiêng liêng, chính tình yêu ấy đã có sức cảm hoá lòng người, cảm hoá tạo vật. Sự hoà điệu giữa tiếng hát tâm hồn và tiếng hát của cuộc đời mới đã thăng hoa những cảm xúc mới mẻ của nhà thơ. Quy luật hình thành nghệ thuật phải chăng cũng phát khởi từ sự nhập cuộc và hoá thân kì diệu ấy.
“Cái tôi” trữ tình của nhà thơ đã biểu đạt tâm trạng điển hình của “cái ta” chung cho mọi người. “Cái tôi” trữ tình của nhà thơ đã biểu đạt tâm trạng điển hình của “cái ta” chung cho mọi người. Tiếng hát của con tàu trở thành điệp khúc tâm tình của bao tâm hồn đang khát khao được dâng hiến cho Tổ quốc, góp phần dựng xây đất nước mạnh giàu. Nhịp thơ linh hoạt tạo nên những cao trào của cảm xúc thơ, giữ cho tiếng hát vừa dồn dập vừa ngân nga trầm bổng.
Lắng nghe cảm xúc trong lòng mình, suy tư qua những trải nghiệm của cuộc sống, lời thơ trở thành lời tâm sự tha thiết chân thành vừa bộc lộ giãi bày, vừa hàm súc, triết lí khái quát cuộc sống. Đây là bài thơ thể hiện khá đặc sắc các thủ pháp nghệ thuật sở trường của Chế Lan Viên, cũng là một trong những bài thơ có ý nghĩa tuyên ngôn thơ sau cách mạng của Chế Lan Viên với những ý tưởng sâu xa.
Trở về với cuộc đời, sống giữa nhân dân không chỉ tìm thấy nguồn cảm hứng sáng tác mới, mà thật sự là trở về với chính mình, với hồn thơ đích thực của người nghệ sĩ chân chính.
Bài “Tiếng hát con tàu” có nhiều câu thơ, nhiều hình ảnh thơ thuộc vào loại hay nhất của đời thơ Chế Lan Viên và của thơ ca cách mạng. Cách mạng và nhân dân đã thăng hoa cảm xúc thơ, phục sinh tâm hồn cho thi sĩ và chính nhà thơ đã tôn vinh vẻ đẹp của nhân dân và cách mạng, tôn vinh địa vị của thơ ca cách mạng. Nói như Xuân Diệu: “Văn chương cách mạng, văn chương với gian khổ hi sinh, cũng lại là cái văn chương chí nghĩa chí tình, văn chương nên thơ nên nhạc”.
Bài văn phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu số 3
Chế Lan Viên là một trong những nhà thơ có năng lực sáng tạo dồi dào với một sức liên tưởng, tưởng tượng phong phú, mãnh liệt. Trong đó, bài thơ “Tiếng hát con tàu” là một bài thơ đánh dấu bước trưởng thành vững chắc của Chế Lan Viên trên con đường thơ ca cách mạng và là một trong những thành tựu xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau năm 1945.
“Tiếng hát con tàu” được lấy cảm hứng từ một sự kiện kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước. Đó là cuộc vận động nhân dân miền xuôi lên tham gia xây dựng tây Bắc những năm 1956 – 1960. Hưởng ứng cuộc vận động đó đã có rất nhiều nhà văn,nghệ sĩ vác ba lô lên đường. Riêng Chế lan Viên vì lí do sức khỏe nên ông không thể tham gia được.
Và bài thơ được ra đời như một chứng tích tâm hồn của nhà thơ với những tình cảm khát vọng vừa sôi nổi, vừa lắng đọng những suy ngẫm và cảm nhận về đời sống kết tinh sự trải nghiệm của Chế lan Viên qua nhiều năm tháng. Tiếng thơ cũng chính là tiếng lòng tâm sự của Chế Lan Viên khi không lên được Tây Bắc của nhà thơ. Ở hai khổ thơ đầu, nhà thơ thể hiện khát khao lên đường. “Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng”.
Sử dụng đại từ “Anh” chính là sự phân thân của chủ thể trữ tình. Chế Lan Viên hiện lên từ chủ thể trở thành khách thể tạo ra cuộc đối thoại giữa hai con người trong một nhà thơ. Tạo ra cuộc trò chuyện phân thân cũng là cách nhà thơ tự thuyết phục mình dưới hình thức thuyết phục người khác. “Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội” câu thơ cho thấy nỗi trăn trở của nhà thơ khi không được lên tây bắc.
Tiếp theo, nhà thơ sử dụng các hình ảnh biểu tượng như là “gió ngàn, vành trăng” biểu tượng cho hiện thực sôi động ở Tây Bắc. Hình ảnh “tàu đói” chính là tâm hồn anh đang đói sự sống, đang khô cằn, héo rụi. Khổ thơ đầu vừa là sự trăn trở mời gọi vừa là lời giục giã lên đường. Đến với tây bắc lúc này không chỉ là khát vọng còn là nhu cầu tự thân, không chỉ là trách nhiệm mà còn là việc làm thiết yếu ở tư cách công dân và cái tôi nghệ sĩ.
Ở khổ thơ thứ hai, nhà thơ tiếp tục nhấn mạnh những ý thơ hướng tới trách nhiệm, vai trò của cá nhân phải biết cống hiến, hi sinh để tạo nên dáng hình cho đất nước. Nhà thơ sử dụng hệ thống câu hỏi tu từ với mật độ khá cao trong hai khổ thơ đầu cùng sự biện luận sắc sảo, thông minh cho thấy mối quan hệ giữa cá nhân với cuộc đời, giữa nhà văn với hiện thực, giữa nghệ thuật với cuộc sống.
Trong cuộc biện luận ấy việc đến với Tây Bắc đến với mảnh đất xa xôi là việc làm cần thiết xuất phát từ trách nhiệm của một công dân và trách nhiệm của một người nghệ sĩ .Chín khổ thơ giữa tiếp tục là những tình cảm thành kính của nhà thơ đối với kháng chiến. Trong đó, ông sử dụng rất nhiều hình ảnh biểu tượng, nghệ thuật so sánh để bộc lộ lòng yêu nước. Lời thơ ấm áp, tin yêu và đầy chân thành diễn tả rất đúng những cảm xúc của Chế lan Viên.
Và với ông, hạnh phúc viên mãn nhất đó chính là trở về với nhân dân, trở về với những gì gần gũi, thiêng liêng nhất của cuộc đời mình, tìm được sự sống của tâm hồn, niềm vui và giá trị của đời mình. Hình ảnh nhân dân trong tình cảm của Chế Lan Viên đó là “anh du kích” với chiếc áo nâu là hình ảnh rất thật tái hiện lại cuộc sống khó khăn gian khổ của dân tộc trong những năm tháng kháng chiến.
Nhưng người anh đó vẫn nắm giữ tay súng, vẫn oai hùng làm nhiệm vụ chiến tranh cách mạng. Hành động trao áo còn lớn hơn cả giá trị vật chất lớn hơn cả tinh thần đồng cam cộng khổ.Hai câu thơ: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” là câu thơ cô đọng như một châm ngôn chứa đựng phát hiện sâu sắc về quy luật tình cảm của con người. Khi ta ở, có thể đất chỉ là khái niệm địa lý nhưng khi ta đi đất bỗng trở thành máu thịt, trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi con người.
Câu thơ triết lí nhưng lại không khô khan và cứng nhắc. Tất cả đều được nhà thơ kết đọng lại từ chính tiếng lòng của mình. Bên cạnh đó, nhà thơ còn thể hiện tình quân dân trong mạch cảm xúc hướng tới tình yêu và sự màu nhiệm của nó. Đặc biệt nhà thơ nhấn vào tình cảm cách mạng thiêng liêng.
Bỏ lại quê hương để đi theo tiếng gọi của đất nước.Bốn khổ thơ cuối của bài thơ đó chính là tiếng lòng hân hoan, náo nức, sôi nổi của Chế Lan Viên. Nhà thơ dường như có một cuộc lột xác từ một cái tôi còn chần chừ, do dự trở thành cái tôi tự nguyện, 1 cái tôi ná nức, say mê muốn tìm đến Tây Bắc.
Bài thơ là sự thể hiện tiếng lòng sôi nổi, say mê, hân hoan của nhà thơ cùng khát vọng lên Tây Bắc, về với mọi miền Tổ Quốc, trở về với nhân dân. Bài thơ cũng cho thấy mối quan hệ độc đáo giữa cá nhân với cuộc đời, giữ nhà văn với hiện thực, giữa nhà thơ với khát vọng lên đường cháy bỏng.
Bài văn phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu số 4
Ở miền Bắc vào những năm 1958 – 1960 có phong trào vận động nhân dân miền xuôi – chủ yếu là thanh niên lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc. Chính sự kiện kinh tế – xã hội này đã gợi cảm hứng giúp Chế Lan Viên sáng tác bài Tiếng hát con tàu.
Ở miền Bắc vào những năm 1958 – 1960 có phong trào vận động nhân dân miền xuôi – chủ yếu là thanh niên lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc. Chính sự kiện kinh tế – xã hội này đã gợi cảm hứng giúp Chế Lan Viên sáng tác bài Tiếng hát con tàu.
Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, bài thơ là khúc hát thể hiện khát vọng trở về với nhân dân, hoà nhập vào cuộc sống lớn của đất nước, của tình nghĩa nhân dân vĩ đại. Đó cũng là tìm về với ngọn nguồn của hồn thơ. Tiếng hát con tàu với hai khổ thơ mở đầu: Là sự trăn trở, lời giục giã mời gọi lên đường.
Tiếp đó, chín khổ thơ giữa là hồi tưởng về những kỉ niệm với nhân dân trong kháng chiến, thể hiện khát vọng về với nhân dân. Sau cùng, bốn khổ thơ cuối là khúc hát lên đường say mê náo nức. Để hiểu được bài thơ này trước hết cần hiểu hai hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng trong suốt bài thơ. Đó là hình ảnh “con tàu” và hình ảnh “Tây Bắc”.
Thực tế thì chưa hề có đường tàu và con tàu lên Tây Bắc. Con tàu ở bài thơ là biểu tượng cho khát vọng lên đường với cuộc sống bao la, nhân dân vĩ đại, đến với ước mơ cao đẹp, ngọn nguồn của cảm hứng nghệ thuật. Vì vậy mà có những câu thơ: Khi lòng ta đã hoá những con tàu, Tàu đói những vầng trăng, Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi, Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép, Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia…
Còn hình ảnh “Tây Bắc” không chỉ là Tây Bắc mà đó còn là Tổ quốc bao la, nơi có cuộc sống gian lao vất vả mà thắm đượm nghĩa tình với muôn vàn kỉ niệm không thể nào quên. Lên Tây Bắc cũng có nghĩa là trở về với chính lòng mình, tâm hồn mình với những tình cảm trong sáng, tình nghĩa sâu nặng đối với nhân dân và đất nước! Vì vậy mà có những câu thơ:
Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng hát,
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?
Trên Tây Bắc! ôi mười năm Tây Bắc,
Xứ thiêng liêng, rừng núi đã anh hùng.
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất,
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ…
Hiểu được ý nghĩa hai hình ảnh biểu tượng cơ bản trên chúng ta sẽ hiểu được ngay tên của bài thơ và các câu thơ đề từ, thấy được tính khái quát rộng hơn, vượt lên các sự vật cụ thể của bốn câu thơ ấy. Ngay sau lời đề từ đã là lời giục giã mời gọi lên đường với những câu hỏi dồn dập lay gọi, hối thúc, khích lệ sự ra đi. Giọng hối hả, hăm hở bộc lộ ở những lời tự chất vấn đầy trăn trở của chính nhà thơ:
– Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
– Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
– Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?…
Ở đây có sự phân thân của chủ thể trữ tình. Anh là người khác mà cũng là chính mình. Nhà thơ tự vấn mà nghe như đang thuyết phục ai. Chính điều này cộng với nhiều phép đối lập (bạn bè đi xa / anh giữ trời Hà Nội, Đất nước mênh mông/ đời anh nhỏ hẹp, thơ/ lòng đóng khép…) đã thể hiện sinh động ý tưởng tác giả, cuộc sống mới đang mời gọi, thôi thúc người nghệ sĩ vượt ra khỏi cuộc đời nhỏ hẹp quẩn quanh.
Tiếp đó là hồi tưởng những kỉ niệm với nhân dân trong kháng chiến. Phần này, nhà thơ gợi lên được những kỉ niệm thiêng liêng, đẹp đẽ trong những tháng ngày kháng chiến gian khổ chống thực dân Pháp của mảnh đất Tây Bắc anh hùng.
Nói về cuộc kháng chiến chống Pháp, lời thơ Chế Lan Viên chứa chan một ân tình sâu nặng. Thời kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa, Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường”. Điều này dễ hiểu. Bởi vì đối với nhà thơ và các văn nghệ sĩ tiền chiến sau 1945 đi cùng cách mạng thì cuộc kháng chiến chống Pháp có một ý nghĩa đặc biệt là đã đánh dấu sự chuyển biến của cả cuộc đời lẫn con đường nghệ thuật của họ hoà nhập vào sự nghiệp của nhân dân và cách mạng.
Lên Tây Bắc là về lại với những kỉ niệm thiết tha máu thịt trong lòng minh, đánh thức dậy không chỉ những hồi tưởng quá khứ mà cả khát vọng trong hiện tại với bao cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Lên với Tây Bắc là trở về và hoà nhập với cuộc sống bao la của đất nước, của tình nghĩa nhân dân vĩ đại. Nhằm thể hiện ý nghĩa sâu sắc, niềm hạnh phúc lớn lao của cuộc trở về đó, nhà thơ dùng đến năm hình ảnh so sảnh tiếp liền nhau:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cò đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
Các hình ảnh so sánh trên, hình ảnh nào cũng đơn sơ, gần gũi và gợi cảm biết bao. Trong hồi tưởng của Chế Lan Viên, nhân dân đã thể hiện mối quan hệ ruột thịt thân thiết, những người mà nhà thơ gọi là anh, là em, là mế (mẹ). Đó là hình ảnh cụ thể của những con người: người anh du kích, đứa em nhỏ liên lạc, bà mế già, cô em gái… Họ đều một lòng một dạ, chiến đấu hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp vừa qua.
Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh những con người này gắn liền với những đóng góp thầm lặng, lớn lao, với tình thương và sự chở che, đùm bọc trọn vẹn và rộng lớn. Từ hình ảnh người anh du kích với chiếc áo nâu vá rách cởi lại cho con đến hình ảnh thằng em liên lạc xông xáo rừng thưa băng, rừng rậm chờ, từ bản Na qua bản Bắc mười năm ròng rã luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Cảm động biết mấy là cảnh bà mế già đêm đêm cời bếp lửa hồng ân cần chăm sóc đứa con chiến sĩ suốt một mùa dài!.
Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc Năm con đau, mế thức một mùa dài Con với mế không phải hòn máu cắt Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi. Đang là hình ảnh xây dựng theo lối tả thực cụ thể nhưng đặc biệt điển hình là cô em gái nuôi quân, Chế Lan Viên bỗng có những liên tưởng bất ngờ về vẻ đẹp:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Nỗi hoài tưởng Tây Bắc với những kỉ niệm đượm thắm nghĩa tình vừa nói ,nhà thơ dẫn tới những suy ngẫm sâu sắc có tính khái quát cao:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
Đến đây âm hưởng bài thơ càng trở nên sôi nổi và lôi cuốn. Tiếng thôi thúc của Tây Bắc, của đất nước, của nhân dân và của đời sống cũng la tiếng của lòng người, lòng nhà thơ tha thiết mời gọi: Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi? Lên với Tây Bắc đã là niềm khát khao cháy bỏng. Mau hãy lên đường để đến với những tình cảm ruột rà thân thiết “Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ”. Lên với Tây Bắc để thấy sự xây dựng mới “Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội, Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga” và để tìm lấy nguồn cảm hứng đầy mộng tưởng nên thơ :
Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa
Nay ta về, ta láy lai vàng ta
Lấy cả những cơn mơ?
Ai bao con tau không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân.
Một đặc điểm nổi bật của thơ Chế Lan Viên thể hiện ngay trong bài Tiếng Hát con tàu đã là sự kết hợp một xúc cách hài hòa giữa chất trí tuệ và chữ tình, giữa cảm xúc suy tưởng chân thành và trí tuệ sâu sắc sự trải nhiệm và những khái quát cao.
Nhờ vào thủ pháp sử dụng những câu nghi vấn có hơi hướng thúc dục, nhắc nhở và những câu khẳng định, có dấu chấm than nhằm diễn đạt ý tưởng cảm xúc, những hình ảnh chọn lọc, những suy tư khái quát đặc sắc, những cảm xúc chân thành tha thiết. bài thơ Tiếng hát con tàu trở thành bài thơ tiêu biểu của Chế Lan Viên.
Bài văn phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu số 5
Chế Lan Viên là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Con đường sáng tác của nhà thơ trải qua nhiều thăng trầm với những bước ngoặc trong phong cách nghệ thuật và tư tưởng chủ đạo, không còn là thế giới kinh dị, huyền bí trong Điêu tàn, sau năm 1945, ông đã rẽ hướng tập trung khai thác đề tài con người và đất nước trong kháng chiến.
Thơ Chế Lan Viên mang đậm vẻ đẹp trí tuệ và giàu suy tư triết lý với những hình ảnh thơ đa dạng, phong phú, đầy sức sáng tạo. Tiếng hát con tàu được rút ra từ tập Ánh sáng và phù sa, bài thơ được lấy cảm hứng từ một sự kiện kinh tế – chính trị có ý nghĩa vô cùng lớn lao: Cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế nơi miền núi Tây Bắc.
Bài thơ là sự kết tinh xuất sắc giữa tư tưởng và nghệ thuật của Chế Lan Viên trong sự nghiệp thi ca cách mạng của mình. Những câu thơ trong lời đề từ cất lên thổn thức, lay động lòng người đọc, nó đã thể hiện được tư tưởng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”
Câu hỏi tu từ vang lên thật nhẹ nhàng “Tây Bắc ư?” chứa đựng nỗi trăn trở, băn khoăn của nhà thơ trước tình cảnh đất nước lâm nguy. Tiếng gọi của Tổ quốc cứ vang vọng bên tai và tâm hồn Chế Lan Viên giờ đây chỉ còn là Tây Bắc xa xôi kia, ông chẳng còn ngại khó khăn, cũng chẳng sợ hiểm nguy rình rập bởi vì trái tim đã hoà chung nhịp đập Tổ quốc, bởi lòng ông đã “hoá những con tàu”.
Hai khổ thơ mở đầu vang lên những lời thơ như thúc giục, như rộn rã hơn, ngôn từ thật tha thiết, những câu hỏi ngày càng dồn dập đang xoáy sâu trong lòng tác giả nói riêng và thế hệ văn nghệ sĩ nói chung:
“Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”
Hình ảnh ẩn dụ “con tàu” mang ý nghĩa biểu trưng cho khát vọng, hoài bão lớn lao đang tuôn chảy trong lòng hàng triệu nhân dân Việt Nam ta khi ấy. Tiếng con tàu vút cao lên như lời kêu gọi mạnh mẽ, nồng nhiệt của Chế Lan Viên. Biện pháp tu từ nhân hoá “Tàu đói những vành trăng” thật biểu cảm, sinh động, “vành trăng” hình ảnh thiên nhiên thơ mộng, trữ tình cũng là biểu tượng cho ánh sáng, niềm tin và hy vọng dạt dào về chiến thắng vang dội vào một tương lai không xa.
Động từ “đói” gợi cho người đọc bao suy ngẫm, đất nước thật sự đang rất cần sự đồng lòng, sự đoàn kết trong nhân dân, dấn thân sẵn sàng hy sinh để xây dựng Tổ quốc ngày càng vững mạnh. Tây Bắc – một địa danh cụ thể xa xôi, hiểm trở cũng là một hình ảnh biểu trưng cho đất nước, Tây Bắc là cội nguồn làm nên linh hồn của bài thơ, của sáng tạo nghệ thuật dạt dào.
“Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp”, nghệ thuật đối lập tương phản gợi sự trăn trở, day dứt trong lòng mỗi độc giả. Ta sống dưới sự che chở của thiên nhiên, sự bao bọc của Tổ quốc nhưng có khi nào ta giật mình nhìn lại mình đã làm được gì cho đất nước hay chỉ sống một cuộc đời vô nghĩa “lòng đóng khép” với thế sự ngoài kia.
Niềm hạnh phúc dâng trào, niềm vui sướng khi trở về với vòng tay quê hương được nhà thơ tái hiện thật chân thành, mộc mạc trong chín khổ thơ tiếp theo, qua đó gợi lại về những kỷ niệm tươi đẹp, gắn bó thuở kháng chiến:
“Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân…
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương.”
Con người khung cảnh nay đã đổi thay, mười năm kháng chiến đi qua “như ngọn lửa” rạo rực, vẫn đang bùng cháy trong lòng tác giả. Có lẽ lúc này, tâm hồn cần sự nghỉ ngơi, cần sự an ủi bởi bàn tay gia đình cho nguôi đi nhớ thương chất chứa trong lòng bao năm, “Cho con về gặp lại mẹ yêu thương”. “Mẹ” ở đây ngoài là người mang nặng đẻ đau, thì cũng có thể là mẹ thiên nhiên, mẹ Tổ quốc thân thương.
Biết bao kỷ niệm vùng Tây Bắc vẫn in đậm trong tâm trí tác giả, hình ảnh “người anh du kích”, “thằng em liên lạc”, người mẹ tóc bạc, nhớ “bản sương giăng”, nhớ cả “đèo mây phủ”, những hình ảnh thật cụ thể, giàu liên tưởng sâu sắc. Tình yêu thương sâu nặng, sự che chở, đùm bọc của đồng bào nơi đây như tiếp thêm sức mạnh cho những người chiến sĩ trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
Chế Lan Viên bằng sự nhạy cảm của mình cũng đã khám phá ra quy luật rất đặc biệt trong suy nghĩ con người: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi đi đất bỗng hoá tâm hồn”. Thuở đầu đặt chân đến vùng đất mới, mọi thứ trong ta hoàn toàn xa lạ, đất chỉ đơn giản là nơi ta sinh sống, tồn tại.
Nhưng thời gian thấm thoát thoi đưa, lâu dần mảnh đất ấy trở nên thân thuộc, từng cái cây ngọn cỏ, từng dáng vẻ con người hằn sâu trong trái tim ta thật sâu sắc, khó phai nhoà, trở thành một phần trong mảnh ghép “tâm hồn” những con người xa quê. Sự chuyển hoá lạ kỳ ấy không phải tự nhiên mà có, nó xuất phát từ tình yêu thương, gắn bó, sự đồng cảm của tâm hồn, nó biến vùng đất lạ lẫm trở thành quê hương thứ hai của mọi người.
Tình yêu trong thơ Chế Lan Viên chẳng phải là tình cảm lứa đôi đơn lẻ mà nó còn hoà mình cùng tình yêu thương đất nước, quê hương. Anh nhớ em! Nỗi nhớ dạt dào, da diết “như đông về nhớ rét”, gắn bó keo sơn, đẹp đẽ, thơ mộng “như cánh kiến hoa vàng”. Tình anh và em nồng nàn, cháy bỏng trong sự chứng kiến của núi rừng Tây Bắc, chỉ cần nắm tay nhau đi qua biết bao mùa chiến dịch.
Tình yêu ta đã hoá miền đất xa lạ trở thành thân quen, gần gũi như quê hương máu thịt, tâm hồn. Bằng ngòi bút tài hoa đậm chất nghệ sĩ lãng mạn của mình, Chế Lan Viên không ngần ngại diễn tả tình yêu với sự hóm hỉnh sâu lắng, sự khăng khít, thuỷ chung với những hình ảnh rực rỡ sắc màu, mang đậm dư vị của núi rừng vùng cao Tây Bắc.
Tiếng gọi của Tổ quốc lại vang lên mạnh mẽ, người chiến sĩ lên đường ra chiến trường không một giây đắn đo suy nghĩ, anh đi mang theo gánh nặng trọng trách trên vai “Đất nước gọi hay lòng ta gọi?”, cả niềm tin yêu nơi hậu phương đang mong chờ “Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ”. Tác giả mượn hình ảnh trong ca dao để miêu tả vẻ đẹp thanh cao, trong sáng trong tâm hồn, “vàng” vừa cao quý, vừa sắt son kiên cường trước ngọn lửa hung tàn, không hề nao núng, giữ nguyên ý chí thuở ban sơ của mình.
Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên là bài thơ đặc sắc để lại giá trị to lớn cho nền thơ ca Việt Nam. Bài thơ là tiếng lòng trăn trở, tha thiết của tác giả trong công cuộc xây dựng Tổ quốc, mong muốn được hoà nhập với nhân dân, với cuộc đời. Hình ảnh “con tàu” chở bao hy vọng, khát khao của Chế Lan Viên đến vùng đất Tây Bắc xa xôi, nơi đây cũng chính là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng chất thơ trong tâm hồn tác giả.
Bài văn phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu số 6
“Ôi, một cánh hoa dù hái vô tình
Cũng là vì yêu cuộc đời quá đẹp
Nói chi lời thơ viết trong nước mắt
Chính là mang hạnh phúc đến lòng anh…”.
(Khi đã có hướng rồi)
Không biết sinh thời Chế Lan Viên đã có bao nhiêu “lời thơ trong nước mắt”, nhưng có nhiều bài thơ đẹp như “một cánh hoa…”. Tiếng hát con tàu” là một bài thơ như thế! Sáng tác vào năm 1960, “Tiếng hát con tàu” là một giò phong lan trong tập thơ “Ánh sáng và phù sa” của Chế Lan Viên, “Tập thơ đã gây một tiếng vang cực lớn… đã thành cái mốc chuyển biến quan trọng trong thơ của Chế Lan Viên nói riêng, của thơ Việt Nam nói chung… đã xuất hiện một thi pháp mới, một giọng điệu mới, một cách nghĩ, cách cảm mới”. (Người làm vườn vĩnh cửu – Trần Mạnh Hảo).
Bài thơ, ngoài 4 câu đề từ còn có 15 khổ thơ, gồm 60 câu, chủ yếu mỗi dòng thơ 8 từ, chỉ có một câu 12 từ, đó là diện mạo của “Tiếng hát con tàu”. Năm 1960, miền Bắc bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, xây dựng và phát triển kinh tế, vãn hóa. Cuộc vận động đồng bào miền xuôi đi xây dựng kinh tế miền núi trở thành một phong trào cách mạng rộng lớn để biến “Tây Bắc thành hòn ngọc ngày mai của Tổ quốc” (Phạm Văn Đồng).
Bài thơ “Tiếng hát con tàu” đã “mang hồn thời đại bay cao” (Tố Hữu), nó đã vượt lên khỏi tính chất thời sự mà trở thành ca khúc thể hiện đắm say khát vọng lên đường, gắn bó với cuộc sống sôi động bằng tình yêu Tổ quốc và nhân dân, để lao động, khám phá và sáng tạo. Chất suy tưởng giàu có, óng ánh vẻ đẹp trí tuệ, sự biện luận sắc sảo và hình tượng mới lạ, độc đáo… đã hội tụ và kết tinh làm nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật đích thực của bài thơ kiệt tác nay.
Trước hết nói về khổ thơ đề từ rất độc đáo và tài hoa. Cấu trúc vần thơ dưới hình thức hỏi – đáp. Không chỉ hỏi bằng câu hỏi mà đáp cũng bằng câu hỏi. Giọng điệu ngân vang, say mê, hào hứng:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu,
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?”.
Bao trùm lời đề từ là niềm tự hào về một tình yêu lớn của nhà thơ. Hỏi – đáp để tự khẳng định sự nhận thức của tâm hồn mình. Câu 1 nói lên tình cảm đẹp, rộng lớn: không chỉ yêu riêng Tây Bắc mà nhà thơ còn hướng tâm hồn mình đến mọi miền của đất nước bao la với tất cả tình yêu thương tha thiết. Câu thứ 2 thứ 3 chỉ rõ nguồn gốc của tình cảm cao đẹp đó. Điều kiện chủ quan là “Khi lòng ta đã hóa những con tàu”, tự thân “ta” đã sống với khát vọng đẹp muốn đi tới mọi miền của Tổ quốc thân yêu để hiến dâng và phục vụ.
Điều kiện khách quan là hiện thực xã hội, là không khí của thời đại: “Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát”. Đó là một thời kì rất đẹp, rất sôi động trên miền Bắc nước ta. Nhân dân phấn khởi, hào hứng xây dựng đất nước và cuộc sống mới. Một nhà thơ khác đã ca ngợi là “… bài thơ miền Bắc – rất tự do nên tươi nhạc, tươi vần”. Câu thơ thứ 4 là hệ quả tất yếu mà điều kiện chủ quan và khách quan đưa tới: “Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?”.
Câu hỏi tu từ vang lên kiêu hãnh biểu lộ tâm hồn mình đã hòa nhập, đã gắn bó, đã mến yêu nồng hậu Tây Bắc. Cách so sánh và cách nói mới mẻ, hấp dẫn. Khổ thơ đề từ không chỉ nói lên tình yêu Tây Bắc, tình yêu Tổ quốc mà còn thể hiện sự biện luận sắc sảo – một nét đẹp trong thi pháp của Chế Lan Viên.
“Anh đi chăng?” hay “anh giữ trời Hà Nội?”; “Anh có nghe…?” và “Tàu gọi anh đi, sao anh chửa ra đi?” – Đó là tâm trạng, là nỗi niềm băn khoăn về chuyện đi hay ở lại? Tâm trạng ngại đi xa, sợ khó khăn gian khổ… là một sự thật của lòng người, không chỉ riêng nhà thơ trong những tháng ngày hòa bình sau 9 năm kháng chiến chống Pháp. Cuộc đấu tranh tư tưởng diễn ra trong mỗi con người, đó là một sự thật. Chế Lan Viên đã sử dụng biện pháp tương phản để tô đậm tâm trạng và nỗi niềm băn khoăn ấy. Hàng loạt câu hỏi tu lừ xuất hiện, âm điệu thơ đầy ám ảnh, giục giã:
“Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
… Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
…Tàu gọi anh đi,sao chửa ra đi!?”.
Hình ảnh con tàu trong 2 khổ thơ đầu: “Con tàu lên Tây Bắc anh đi chăng?” và “Tàu đói những vành trăng” – mới chỉ là một biểu tượng về một hành trình đi xa; con tàu này còn “đói những vành trăng” nghĩa là chưa có nhiều động lực để phóng tới những không gian, những chân trời. Nó chưa phải là “Tiếng hát con tàu”. Đó là sự tinh tế trong tư duy nghệ thuật của Chế Lan Viên.
Chín khổ thơ tiếp theo hàm chứa những tư tưởng tình cảm đẹp khi nhà thơ nghĩ về Tây Bắc và con người Tây Bắc vói bao kỉ niệm sâu sắc, cảm động. Bài học về nghĩa tình thuỷ chung đối với đất nước và nhân dân làm cho ta lớn lên về mặt tâm hồn và để ta nhớ mãi.
Ngọn lửa kháng chiến thần kì, những bản, những con đèo, dòng suối, những anh du kích, em bé liên lạc, bà mế, cô gái Tây Bắc “vắt xôi nuôi quân” đã trở thành kỉ niệm, để thương để nhớ, đã hóa tâm hồn người cán bộ kháng chiến miền xuôi, nhà thơ…
Tây Bắc là hồn thiêng sông núi, là nơi rực cháy ngọn lửa kháng chiến, ngọn lửa Điện Biên thần kì, là “xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng”, là mảnh đất yêu thương “nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất – Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân”. Tự hào mà hướng về tương lai với bao niềm tin sáng ngời:
“Ơi kháng chiến!Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường”.
Nhận thức ấy đã khai sáng tâm hồn, nhận thức về con đường đi tới còn nhiều gian khổ mà tự ý thức “con cần vượt nữa”để được trở về cội nguồn “cho con về gặp lại Mẹ yêu thương”. “Mẹ” được viết hoa, một mĩ từ, là hình ảnh cao đẹp của Bà Mẹ Tổ quốc muôn quý nghìn yêu.
Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ chính xác, biểu cảm, sáng tạo hình ảnh đã làm cho vần thơ “Tiếng hát con tàu” cất cánh: “xứ thiêng liêng”, “nơi máu rỏ”, “trái chín đầu xuân”, “ngọn lửa… soi đường”, “Mẹ yêu thương”. Các số từ chỉ lượng thời gian: “mười năm qua”, “nghìn năm sau” là một cách nói mang tính triết luận về một chiêm nghiệm lịch sử vô cùng thấm thía. Với Chế Lan Viên thì gặp lại nhân dân là một niềm vui lớn, một khao khát lớn, một niềm hạnh phúc lớn:
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ,
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”.
Một cách nói vừa quen vừa là lạ. Năm hình ảnh so sánh liên tiếp xuất hiện để cụ thể hóa, hình tượng hóa niềm vui, niềm hạnh phúc to lớn “Con gặp lại nhân dân”. Có hình ảnh về thế giới thiên nhiên, có hình ảnh vẻ cõi đời, tuổi thơ. Nhân dân là cội nguồn của sự sống và hạnh phúc, là suối mát mùa xuân đón bầy nai đói khát trở về chốn cũ yêu thương, là hơi ấm mùa xuân đem lại màu xanh và hương mật cho cỏ, là ánh thiều quang cho chim én sánh đôi kết đàn, là dòng sữa ngọt cho bé thơ đói lòng, là cánh tay nhẹ đưa nôi mềm đem lại giấc ngủ say, cơn mơ đẹp cho em nhỏ…
Có hình ảnh thơ mộng. Có hình ảnh ấm áp sâu nặng nghĩa tình. Những so sánh ấy còn mang một ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc: về với nhân dân là trở về ngọn nguồn hạnh phúc, là hợp đạo lí và đúng lẽ tự nhiên. Triết luận ấy càng trở nên sâu sắc, thấm thìa vì nó được thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ chọn lọc, hình tượng, gợi cảm, thi vị.
Với Chế Lan Viên thì gặp lại nhân dân, trở về trong lòng nhân dân là để soi lại lòng mình, là để đền ơn đáp nghĩa, sống thuỷ chung trong tình người. Nhân dân đã hi sinh, đã tận tình, đã cưu mang và san sẻ. Cách mạng, anh bộ đội, anh cán bộ đã được nhân dân nuôi dưỡng và đùm bọc trong tình thương. Nhân dân được nhà thơ nói đến là những con người cụ thể tiêu biểu cho mọi tầng lớp trong cộng đồng dân tộc với bao phẩm chất đẹp như vàng mười, sáng như ngọc.
Nhân dân cần lao và anh hùng, đó là “anh con, người anh du kích”, trước lúc ra trận, với “chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn – Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách – Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con”. Là “em con, thằng em liên lạc” như con thoi giữa rừng sâu đầy bóng giặc, “Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc – Mười lăm năm tròn chưa mất một phong thư..”. Là bà mế Tây Bắc:
“Con nhớ mế. Lửa hồng soi tóc bạc,
Năm con đau, mế thức một mùa dài,
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”.
“Lửa hồng soi tóc bạc” là một hình ảnh rất đẹp. Lửa hồng ấm áp của tình thương soi sáng mái tóc bạc của người mẹ hiền miền núi. Mế với con không phải tình máu mủ ruột thịt, không phải “hòn máu cắt” ra, nhưng mế đã nuôi con như con đẻ của mế, nên “trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”. Những từ ngữ chỉ độ dài của thời gian như: “một mùa dài”, “trọn đời”, “nhớ mãi”, liên kết với từ “nhớ”, từ “thức” đã thể hiện một quan hệ tình sâu nghĩa nặng, thuỷ chung rất đáng tự hào.
Nhớ người rồi nhớ đến cảnh. Người lính trong đoàn “quân xanh” Tây Tiến thì “Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”; anh cán bộ về xuôi nhớ Việt Bắc là “Nhớ từng rừng nứa bờ tre – Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”. Chế Lan Viên nhớ Tây Bắc với nỗi nhớ “đã hóa tâm hồn”:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ,
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở,
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!”.
Hai chữ “nhớ” diễn tả nỗi nhớ khôn nguôi. Nhớ bản sương, nhớ đèo mây là nỗi nhớ xa xôi, nỗi nhớ phủ mờ sương khói trong hoài niệm, nhớ bồn chồn không yên. Những bản sương, những đèo mây ấy đã là “nơi hồn ta thấm đất”, đã gắn bó với anh, với em, với mế… bằng bao kỉ niệm sâu sắc một thời gian khổ, vì thế “Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?”. Hỏi mình cũng là để tự đo lòng mình, đo yêu thương tình nghĩa.
Đất lành thì chim đậu, lúc đầu thì mới “chỉ là nơi đất ở” để mưu sinh, để tồn tại. Chỉ có sống hết mình, gắn bó với “nơi ở’ bằng tâm huyết, bằng yêu thương, thi mới có thể “Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”. Từ những chi tiết, những hình ảnh, những cảm xúc cụ thể, tác giả đã khái quát, đã nâng lên thành chiêm nghiệm, những suy ngẫm triết luận, với ý thức sâu xa đề cao đạo lí đẹp “sống hết mình, sống thủy chung với nhân dân, với quê hương đất nước”.
Nỗi nhớ em là một nỗi nhớ đẹp. Nhớ “vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng… Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”. Nhớ em trong mối tình quân dân thắm thiết. Nhớ em với bao xôn xao, bồi hồi:
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng,
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc,
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”.
Có biết sống trong hạnh phúc tình yêu thì con thuyền của lòng ta mới neo giữ nơi bến nước nhân dân. “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét”, nỗi nhớ thật tự nhiên như quy luật của sự sống. Sóng nhớ bờ, đông nhớ rét, anh nhớ em, đó là sức mạnh của tình yêu, “Tình yêu của ta” của anh và em gắn bó khăng khít, bền chặt (như cánh kiến), thơ mộng (như hoa vàng). Cũng là cách nói rất thơ, rất hồn nhiên.
Tình yêu đã làm đẹp đôi ta, như khi mùa xuân đến, chim kết đôi và sánh bầy, lông trở biếc quyến rũ hơn, tiếng hót tiếng gù gọi đàn hay hơn, đáng yêu hơn. Ở đoạn trên, tác giả viết: “Khi ta đi, đất đá hỏa tâm hon”và ở đây, ông lại nâng lên một âm tần, âm vực khác: “Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”. Đó là những câu thơ mà ngôn ngữ được nén lại, cô đúc lại, luyện thành như một châm ngôn sống và ứng xử đẹp, khẳng định quy luật và quan niệm về sống và tình yêu.
Phép đối và biện pháp so sánh được vận dụng sáng tạo viết nên những vần thơ mang vẻ đẹp ngôn ngữ cân xứng, hài hòa, những hình ảnh có sắc màu gợi cảm. Triết lí, triết luận trong thơ Chế Lan Viên được khoác bằng những trang phục, những hình ảnh đầy chất thơ, một mặt, ông tránh được hạn chế “ý sâu mà khô”, trái lại, đã sáng tạo nên những câu thơ, vần thơ sáng giá nhất, những câu thơ trong trí nhớ của nhiều người.
Bốn khổ thơ cuối nói về khúc hát lên đường. Con tàu từ chỗ “đói những vành trăng” nay trở thành con tàu “mộng tưởng”, “uống một vầng trăng”… Giọng điệu thơ rộn ràng, diễn tả niềm vui phấn khởi lên đường. Đến đây, con tàu mới trở thành khát vọng sống, khát vọng lên đường. Lên Tây Bắc, đi tới mọi miền Tổ quốc là đáp lời kêu gọi “lên đường” của đất nước, làm theo tiếng gọi của lương tâm, của tình em, tình mẹ đang mong, đang chờ. Tất cả đều thôi thúc:
“Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga”.
Tàu “vỗ đôi cánh”, “mắt thèm mái ngói đỏ trăm ga” – là cách nói lãng mạn, say mê. Lên Tây Bắc trong không khí tưng bừng của ngày hội – ngày hội lớn của nhân dân lên đường dựng xây đất nước:
“Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến,
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao”.
Khổ cuối giọng thơ vang lên. Có câu thơ mở rộng đến 12 từ. Hai dòng cuối sử dụng biện pháp “bắc cầu” liền mạch. Cùng với con tàu đã có thêm cơn mơ, mộng tưởng, có vầng trăng, có mặt hồng em, và có cả con suối mùa xuân:
“Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng?
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em như suối lớn mùa xuân”.
“Mặt hồng em” là một ẩn dụ nói về hiện thực cuộc sống khi mà “mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào”, nói về những sáng tạo thi ca gặt hái được khi nhà thơ đã trở lại Tây Bắc – mẹ của hồn thơ – trở về với nhân dân. Khổ thơ cuối khẳng định một niềm tin của nhà nghệ sĩ chân chính. Trở về với nhân dân là để lấy lại “vàng thứ vàng mười của lòng mình đích thực, là để gắn bó với hiện thực của đất nước và nhân dân mà khám phá và sáng tạo, để “ta cũng uống Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân”.
“Tiếng hát con tàu” là tiếng hát mê say của Chế Lan Viên. Bài học thấm thía nhất là hãy biết trở về với nhân dân, sống trong lòng nhân dân để lao động sáng tạo để hiến dâng và phục vụ, để khám phá và để… đền đáp nghĩa tình. Bài thơ còn nói lên một cách xúc động nhất là phải biết sống đẹp trong tình yêu lứa đôi, trong tình yêu đất nước và nhân dân. Nhan đề bài thơ là “Tiếng hát con tàu” gợi lên trong tâm trí chúng ta một ý tưởng đẹp đẽ là hãy sống đẹp, sống có hoài bão, sống có khát vọng như con tàu “vỗ cánh” bay cao, bay xa làm nên sự nghiệp lớn.
Tiếng hát con tàu” đã thể hiện tập trung phong cách nghệ thuật của Chế Lan Viên: mẫn cảm, có tài sáng tạo hình ảnh (ẩn dụ, so sánh), sử dụng tương phản đối lập và hàng loạt câu hỏi tu từ để biện luận, để tự tranh biện làm cho ý tưởng, chủ đề được thể hiện sâu sắc. Giọng thơ đa thanh, biến hóa, càng về cuối càng rộn rã như một hành khúc.
Nét đặc sắc nhất của “Tiếng hát con tàu” là có một số câu thơ rất hay, kết hợp chặt chẽ giữa triết luận với cảm xúc, giữa trí tuệ với hình tượng. Đến nay, đường lên Tây Bắc vẫn chưa có đường tàu và con tàu, nhưng “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên vẫn hấp dẫn chúng ta bởi nó là văn chương đích thực, nó cho ta cảm và hiểu về lẽ sống và tình yêu.
Bài văn phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu số 7
Chế Lan Viên (1920 – 1989) tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, Quảng Trị. Ông sáng tác rất sớm và nổi tiếng với tập thơ Điêu tàn xuất bản năm 1937 và được đánh giá là nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Trước Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên đã từng viết: Với tôi tất cả như vô nghĩa, Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau, đã từng cầu xin: Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh, Một vì sao trơ trọi cuối trời xa… để ẩn náu, trốn tránh mọi khổ đau, phiền não của cuộc sống.
Sau Cách mạng, trong sự hóa thân kì diệu của đất nước và dân tộc, nhà thơ cũng đã làm một cuộc hóa thân để hòa nhập với cuộc sống xung quanh và cũng là tìm về với chính mình.Hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc phấn khởi bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống hòa bình, xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Năm 1958, Đảng và Nhà nước ta phát động phong trào khai hoang, phát triển kinh tế ở vùng cao. Phong trào này đã được nhân dân miền xuôi, nhất là những địa phương đất chật người đông như Hà Nam, Nam Định, Thái Bình… hưởng ứng rất nhiệt tình. Thanh niên được coi là lực lượng tiên phong lên Việt Bắc, Tây Bắc vỡ đất khai hoang, xây dựng nông trường, làm thay đổi bộ mặt của chiến khu xưa.
Trong kháng chiến chín năm chống Pháp, nhà thơ Chế Lan Viên thường xuyên đi công tác nên được sống trong sự đùm bọc và tình yêu thương của đồng bào Việt Bắc, Tây Bắc. Tình cảm quý báu đó khơi nguồn thi hứng để tác giả sáng tác bài thơ Tiếng hát con tàu.
Bài thơ vừa là khúc hát say mê, rạo rực của một hồn thơ đã thoát khỏi khung trời chật hẹp của cái tôi nhỏ bé để ra với chân trời rộng lớn của cái ta là nhân dân, đất nước; vừa thể hiện lòng biết ơn sâu nặng và nỗi nhớ da diết của nhà thơ về Tây Bắc – quê hương thứ hai, nơi có những con người đã gắn bó, chia sẻ gian nan, cùng vào sống ra chết với mình trong thời kì chống Pháp.
Tiếng hát con tàu được bố cục theo trình tự diễn biến tâm trạng. Giọng điệu, âm hưởng cũng biến đổi theo mạch tâm trạng. Hai khổ đầu là sự trăn trở và lời mời gọi lên đường. Chín khổ thơ giữa thể hiện khát vọng về với nhân dân, gợi lên những kỉ niệm kháng chiến đầy nghĩa tình với nhấn dân và đất nước. Bốn khổ cuối là khúc hát lên đường sôi nổi, tin tưởng và say mê. Bốn câu thơ đề từ chính là tư tưởng chủ đề bài thơ, đã khái quát suy nghĩ và tình cảm của tác giả:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.
Câu hỏi tu từ: Tây Bắc ư? là lời lòng tự hỏi lòng, chứa đựng nỗi băn khoăn, trăn trở rất thực trong tâm trạng nhà thơ nói riêng và tầng lớp văn nghệ sĩ nói chung ở thời điểm lịch sử đó. Hai khổ thơ đầu là lời giục giã với những câu hỏi thôi thúc. Nhà thơ chọn hình ảnh con tàu và địa danh Tây Bắc làm biểu tượng nghệ thuật của bài thơ:
Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng.
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
Nhà thơ ví tâm hồn mình như một con tàu đang mở hết tốc lực trong hành trình tiến lên phía trước mà đích đến là đất nước, là nhân dân vĩ đại và cao cả, là cuộc sống đầy ắp chất liệu và cảm hứng nuôi dưỡng hồn thơ. Tiếng hát con tàu ờ đây là biểu tượng cho khát vọng ra đi, đến với những miền xa xôi, đến với nhân dân, đất nước và cũng còn là đến với những mơ ước, những ngọn nguồn của cảm hứng nghệ thuật.
Ở thời điểm đó chưa có đường tàu lên Tây Bắc, cho nên hình ảnh con tàu trong bài thơ này hoàn toàn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là con tàu trong tâm tưởng chỗ đầy khát vọng hòa hợp với dân tộc, đất nước và niềm tin vào tương lai tươi sáng. Chế Lan Viên đã mượn hình ảnh thiên nhiên để khơi gợi khát vọng lên đường của mọi người. Khao khát tìm đến những chân trời rộng mở: Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi, Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng. Nhà thơ nói với người khác mà cũng là tự nhủ với chính lòng mình.
Đánh thắng giặc xong, đất nước xây dựng lại rất cần sự đóng góp của mỗi người. Hãy thoát ra khỏi cái tôi chật hẹp mà hòa nhập với mọi người. Đi theo con đường ấy có thể tìm kiếm được nghệ thuật chân chính và gặp được tâm hổn của chính mình trong cuộc sống rộng lớn của nhân dân.
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
Chế Lan Viên đã khẳng định về mối liên quan máu thịt giữa văn chương, nghệ thuật với hiện thực cuộc sống, bởi cuộc sống phong phú muôn màu muôn vẻ chính là kho chất liệu, là nguồn cảm hứng vô tận của văn nghệ sĩ. Điều đó cho thấy một nhà thơ Chế Lan Viên hoàn toàn mới mẻ, khác hẳn với Chế Lan Viên – nhà thơ lãng mạn trước Cách mạng bế tắc và tuyệt vọng giữa cuộc đời tù túng, phức tạp.
Tây Bắc, ngoài tên gọi cụ thể của một vùng đất, còn là tiêu biểu cho mọi miền xa xôi của Tổ quốc, nơi có cuộc sống gian lao mà nặng nghĩa nặng tình, nơi đã ghi khắc những kỉ niệm không thể quên của những người đã trải qua cuộc kháng chiến, nơi đang vẫy gọi mọi người đi tới chung sức, chung lòng xây dựng lại quê hương.
Đến với Tây Bắc, mảnh đất nặng nghĩa nặng tình là đến với nhân dân đã chở che, đùm bọc cán bộ, chiến sĩ ta trong suốt cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp xâm lược. Chính vì lẽ đó, tiếng gọi thôi thúc lên Tây Bắc đồng nghĩa với tiếng gọi về với chính lòng mình, với tâm hồn mình với những tình cảm thiết tha, trong sáng.
Nếu hai khổ thơ đầu là sự trăn trở và lời giục giã mời gọi lên đường thì chín khổ tiếp theo lại là niềm hạnh phúc và khát vọng về với nhân dân, gợi lại những kỉ niệm sâu nặng đầy tình nghĩa trong những năm kháng chiến; xen với những hình ảnh lung linh của hồi tưởng là những chiêm nghiệm, đúc kết trong giọng thơ trầm lắng. Bắt đầu là khung cảnh và con người Tây Bắc nay đã đổi thay:
Trên Tây Bắc! ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân.
Ở khổ thơ này, các hình ảnh cũ và mới đan xen vừa rất sáng tạo, vừa giàu ý nghĩa. Nghĩ về Tây Bắc, những kỉ niệm vui buồn về cảnh vật và con người cứ lớp lớp hiện lên trong tâm tưởng nhà thơ. Sau mười năm xa cách, xưa Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất, Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân. Tất cả những điều đó tạo nên nền tảng vững chắc cho đời sống tinh thần, đời sống tình cảm phong phú của con người. Cao hơn thế, nó trở thành ngọn lửa soi đường dẫn tối:
Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường.
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương.
Trong suy nghĩ của nhà thơ, đến với Tây Bắc là đến với vùng đất thân thuộc của tâm hồn mình, là làm cuộc hành trình về với Mẹ nhân dân – Mẹ Tổ quốc yêu thương. Chế Lan Viên khái quát hành trình trở về với nhân dân bằng những hình ảnh so sánh vừa hiện thực vừa trữ tình, thể hiện độ sâu của cảm xúc và độ cao của sáng tạo nghệ thuật:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
Để nói lên ý nghĩa sâu xa, niềm hạnh phúc lớn lao của việc trở về với nhân dân, tác giả đã sử dụng một loạt hình ảnh so sánh để khơi sâu, mở rộng thêm ý nghĩa của sự việc, sự vật. Nhà thơ nhận thức được rằng văn nghệ sĩ về với nhân dân là điều hết sức tự nhiên, phù hợp với quy luật như nai về suối cũ là nơi quen thuộc, như cỏ đón giêng hai. Chim én gặp mùa để tiếp nhận sức sống và phô bày vẻ đẹp.
Về với nhân dân là về với ngọn nguồn của sự sống, của hạnh phúc; là về nơi đã nuôi dưỡng, chở che, cưu mang mình. Đây là hành động cần thiết và kịp thời đối với tầng lớp văn nghệ sĩ để được tiếp thêm niềm tin và sức mạnh trên con đường sáng tạo nghệ thuật: Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa,Chiếc nôi dừng bỗng gặp cánh tay đưa. Khát vọng lên Tây Bắc gợi nhớ cả một trời kỉ niệm về những năm tháng kháng chiến gian nan, nguy hiểm mà ấm áp tình người:
Con nhớ anh con người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con.
Con nhớ em con thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư.
Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài.
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.
Khát vọng trở về với nhân dân được nhà thơ thể hiện thông qua những cảm xúc chân thành, những kỉ niệm sâu sắc gắn liền với từng con người tiêu biểu cho sự hi sinh, đùm bọc của nhân dân trong kháng chiến. Nhân dân ở đây không còn là một khái niệm chung chung, mà là những con người cụ thể, gần gũi.
Đó là người anh du kích với Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách, Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con, là thằng em liên lạc, Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ; là bà mế lửa hồng soi tóc bạc, Năm con đau mế thức một mùa dài,… Với những điệp ngữ và cách xưng hô thân tình: Con nhớ anh con, Con nhớ em con, Con nhớ mế,… nhà thơ đã thể hiện tình cảm đằm thắm với những con người đã từng gắn bó máu thịt với mình, chia sẻ từng vắt cơm, manh áo trong hoàn cảnh khó khăn của kháng chiến.
Đó là những con người hi sinh thầm lặng cho cách mạng, cho kháng chiến. Những câu thơ nói về nhân dân Tây Bắc biểu lộ lòng biết ơn, sự gắn bó chân thành và niềm xúc động thấm thía của nhà thơ. Mỗi con đường, mỗi bản làng, mỗi ngọn núi, dòng sông đều gắn với những kỉ niệm vui buồn không thể nào quên.
Đang từ dòng hồi tưởng về những kỉ niệm khó quên, nhà thơ đã nâng cao và khái quát cảm xúc lên thành một triết lí nhân sinh sâu sắc. Khổ thơ dưới đây như một phát hiện về quy luật của tình cảm đời sống tâm hồn con người:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
Tình thương yêu ở đây không chỉ giới hạn trong tình yêu đôi lứa mà còn là những tình cảm sâu nặng đối với quê hương, đất nước. Nhà thơ đã nói tới phép màu của tình yêu. Chính tình yêu đã biến những miền đất xa lạ thành thân thiết như chính quê hương của mình, hóa thành máu thịt tâm hồn mình: Khi ta ở chỉ là nơi đất ở, Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn / Triết lí được rút ra từ tình cảm, cảm xúc chân thành, cho nên không khô khan mà vẫn tự nhiên, dung dị. Ở khổ thơ tiếp theo, mạch thơ đột ngột chuyển sang một rung cảm và suy tưởng khác về: tình yêu và đất lạ:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng,
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
Nói đến tình yêu, nỗi nhớ, Chế Lan Viên có cách so sánh thật độc đáo và thú vị. Nỗi nhớ trong tình yêu, giữa anh với em là tất yếu, giống như quy luật của đất trời: đông về nhớ rét Còn tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng – một đặc sản của núi rừng Tây Bắc và đẹp như sắc biếc lông chim lúc xuân sang. Tác giả đã cụ thể hóa khái niệm trừu tượng là tình yêu thành những hình ảnh gần gũi, quen thuộc với con người, nhất là người miền núi.
Đoạn thơ thứ ba mang âm hưởng của khúc hát lên đường háo hức, dồn dập và lôi cuốn. Chất trữ tình bay bổng, lãng mạn kết hợp với giọng điệu sôi nổi, thôi thúc. Đây là lời tự cổ vũ, động viên và khẳng định một lần nữa quyết tâm lên Tây Bắc, mở mang những nông trường, những vùng kinh tế mới cho đất nước:
Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi
Tình em đang mong tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.
Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng
Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào
Rẽ người mà đi vịn tay mà đến
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao.
Khao khát ấy thôi thúc tâm hồn nhà thơ vì lên Tây Bắc cũng là về với ngọn nguồn của hồn thơ, của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Những năm tháng gian khổ những hi sinh lớn lao, những đau thương của chiến tranh nay đã kết thành: Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào, trên Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao. Thôi thúc lên Tây Bắc đến đây đã nhập chung làm một với nhu cầu hòa hợp với nhân dân, đất nước. Nhà thơ đã tìm thấy ở đó sức mạnh vươn lên:
Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ,
Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa,
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta.
Nhà thơ Chế Lan Viên đã mượn hình ảnh tượng trưng thường thấy trong ca dao xưa để biểu đạt vẻ đẹp cao quý của tâm hồn. Giống như vàng không sợ lửa, nhà thơ được rèn luyện, thử thách trong hiện thực gian khó, đau thương và oanh liệt của cuộc kháng chiến trường kì để giờ đây đã thực sự có được chất vàng mười tinh túy của tâm hồn gắn bó máu thịt với nhân dân, đất nước. Kết thúc bài thơ là những ẩn dụ nghệ thuật tượng trưng có giá trị tư tưởng và thẩm mĩ rất cao, hội tụ tinh thần của toàn bài:
Lấy cả những cơn mơ!
Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng.
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân.
Bằng các thủ pháp nghệ thuật tả thực, ẩn dụ, so sánh, tượng trưng phong phú…, trong bài Tiếng hát con tàu, Chế Lan Viên đã sáng tạo thành công nhiều hình ảnh đặc sắc gợi sự liên tưởng phong phú cho người đọc. Cảm hứng bao trùm trong bài thơ là lòng biết ơn và niềm hạnh phúc trong sự gắn bó với cuộc sống, với nhân dân và đất nước của một tâm hồn đã từ thung lũng đau thương ra cảnh đồng vui.
Con tàu tâm tưởng chở đầy ước mơ, khát vọng đang băng băng tới những vùng đất xa xôi của Tổ quốc, đồng thời cũng là mảnh đất mỡ màu nuôi dưỡng hồn thơ, hứa hẹn những mùa vàng bội thu trong một tương lai không xa.Người ta nhận xét thơ Chế Lan Viên là thơ trí tuệ.
Rất đúng, bởi nhà thơ chịu khó trăn trở, tìm tòi để sáng tạo ra cái mới lạ, độc đáo mà vẫn nồng nàn chất trữ tình. Có thể coi bài thơ Tiếng hát con tàu tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Chế Lan Viên – một nhà thơ lãng mạn cách mạng nổi tiếng của thơ ca Việt Nam hiện đại.
Xem thêm nhiều bài hơn tại : Đề Thi