Nhà văn M. Gorki cho rằng: “Văn học là nhân học”. Ý kiến của em về quan niệm trên. Từ đó bàn luận thêm mối quan hệ giữa con người trong cuộc đời và con người trong tác phẩm, sức sống của nhân vật điển hình

0

Trên đời này, ngoài con người ra, còn có hai điều rất khó hiểu và khó hiểu đúng. Đó là tình yêu và văn học. Có ai dám nói rằng mình hiểu tình yêu và cũng có ai dám nói rằng mình định nghĩa được văn học? Văn học cũng như tình yêu vậy, có rất nhiều màu sắc. Chính vì thế nó không phải là những vật thể bất dịch có thể nắm bắt bằng tay, ngửi bằng mũi hay nhìn bằng mắt được. Người ta nói về văn học nhiều lắm, dài lắm, đẹp lắm! Còn Maxim Gorki, với ông: Văn học là nhân học – súc tích như bản chất của văn học.

Cái định nghĩa văn học gồm 5 chữ ấy ngắn gọn về số lượng ngôn từ nhưng về mặt ý nghĩa lại chẳng ngắn gọn chút nào. Văn học là nhân học, văn học là bộ môn học của con người, không phải chỉ là cái con người sinh học với đầy đủ chân, tay, mắt, mũi, tim, gan… Mà đó là những con người với cuộc sống tinh thần phong phú và đa dạng của họ. Học văn là để hiểu sâu hơn tâm hồn con người, và đồng thời cũng là để học cách làm người. Phải chăng đó chính là điều Gorki muốn nói với chúng ta – những người đã phần nào đặt chân vào ngưỡng cửa văn học?

Câu nói của Gorki như đã được hun đúc lại từ chính cuộc đời cầm bút của ông. Đó là một phát hiện mới mà lại không mới; là một câu nói ngắn gọn mà lại không ngắn gọn. Đối với những con người chỉ coi văn chương là một thứ phù phiếm thì câu nói ấy của ông cũng sớm héo úa như những bông hoa chưa kịp nở đã tàn.

Với văn học, chất liệu đầu tiên để cấu thành tác phẩm là ngôn từ. Nhưng yếu tố cuối cùng quyết định sự sống của tác phẩm lại không phải là ngôn từ. Đó chính là hình tượng nhân vật. Nhân vật văn học không ai khác chính là những con người của cuộc sống. Là một đối tượng phản ánh của văn học, con người hiện ra sinh động trong tác phẩm. Đọc tác phẩm ta nhận ra mình qua mỗi nhân vật ở từng ngõ ngách nội tâm, hiểu đúng hơn và hiểu nhiều hơn về cái thế giới tinh thần phong phú bí ẩn vốn bị cái bề ngoài bao phủ. Đến với Chí Phèo, ta nhận ra một con người của thời đại một cỗ máy trong khí ấy, một kẻ tha hoá mất phẩm chất nhưng đồng thời cũng là những tâm trạng, những nghĩ suy số phận của cả một lớp người nông dân nghèo thời Pháp thuộc. Đau khổ, độc ác, nghèo hèn, nhục nhã, hỗn hào chửi cả làng… và cao hơn hết là nỗi khát vọng được làm người, nỗi ước ao được trở về cuộc sống đời thường. Hiểu tâm lí của nhân vật, hiểu nỗi đau của nhân vật, độc giả lại càng hiểu về chính bản thân mình và cái thế giới với biết bao con người khác quanh mình.

Học văn hay làm văn, viết văn cũng vậy thôi. Cũng là để nhận thức đúng đắn hơn về cuộc sống và con người. Bản chất của cuộc sống cũng là bản chất của con người. Mỗi người khi chấp nhận con đường về nghiệp văn tức là đã chấp nhận đương đầu với thử thách, khó khăn để sống đúng và hiểu đúng hơn về con người, về cuộc đời. Chính vì thế mà văn học đã lựa chọn cuộc đời làm người bạn đồng hành tri âm của mình. Và cũng chính vì lẽ đó mà văn học phải là nhân học, chứ không nào khác được.

Nhưng nếu chỉ hiểu như vậy thôi thì đã đủ chưa? Văn học cung cấp bấy nhiêu mảnh đời, bấy nhiêu số phận không đơn giản chỉ để mỗi độc giả nhận ra mình qua từng mảnh đời, số phận đó. Văn học là nhân học và vì thế văn học không chỉ thực hiện chức năng nhận thức, còn phải làm tốt cả chức năng giáo dục. Học văn là học cách làm người. Và học cách làm người tức là học về cái tốt, cái đẹp và cái thật không phải lúc nào văn học cũng đề cao cái tốt đẹp. Cũng có lúc trong văn học xuất hiện những thằng cơ hội như Xuân tóc đỏ (Số đỏ – Vũ Trọng Phụng), lưu manh như Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao), đểu giả nham hiểm như Bá Kiến (Chí Phèo) và thậm chí dâm ô, truỵ lạc như Nghị Hách (Giông tố – Vũ Trọng Phụng). Nhưng điều tác phẩm văn học muốn đề cập đến qua những nhân vật ấy là con người phải biết loại bỏ, căm ghét và chống lại cái xấu, đừng để cái xấu, cái ác như thế tồn tại trong cuộc đời. Điều đó cũng có nghĩa là, văn học giúp người đọc hướng thiện và đi tới sự hoàn thiện mình.

Câu nói của M. Gorki không dừng lại ở đó. Không phải cho đến lúc con người tiếp cận với văn học thì mới biết nhận thức cái bản chất tốt đẹp, hoàn thiện của cuộc sống cũng như con người. Mà có lẽ, khi con người không coi văn chương là phù phiếm là một môn học cao quý thì họ đã tự tìm được cái tốt đẹp trong mình rồi. Văn chương là người thầy dạy ta và đồng thời cùng là tấm gương để ta tự soi mình. Đến với văn chương là đến với môn học về tâm hồn. Đến với văn chương là chúng ta đã phần nào thanh lọc chính mình, làm phong phú hơn tình cảm, tâm hồn mình.

Có thể nói Gorki đã đúng đắn khi đưa ra một định nghĩa về văn chương như vậy. Trở lại với ý kiến ban đầu của bài viết rằng đây là một phát hiện mới mà không mới của Gorki. Nói không mới vì câu nói của ông đề cập đến bản chất của văn học – một vấn đề mà nhiều người đã nêu lên và sau này Thạch Lam, Nam Cao hay Nguyễn Khải cũng từng đề cập. Nhưng câu nói của Gorki lại có giá trị của một câu triết lí, câu nói này là đánh giá đúng và chuẩn xác trọng tâm bản chất của văn học. Không dông dài, không hoa mĩ, ngắn gọn và chắc nịch, câu nói ấy đi vào lòng người những tâm huyết với nghề văn, nghiệp văn như một định luật bất biến.

Xét theo một khía cạnh nào đó, Maxim Gorki đã đề cập tới nhân vật trong phát biểu của mình. Văn học giúp con người tốt hơn thông qua nghệ thuật thể hiện nhân vật chứ không phải là ở những khái niệm lí lẽ thuần giáo huấn. Như vậy giữa con người trong tác phẩm và con người trong cuộc đời có gì giống và khác nhau? Và sức sống của nhân vật điển hình mạnh như thế nào?

Tác phẩm là sự thể hiện cuộc đời vì thế con người của tác phẩm cũng là sự thể hiện của con người trong cuộc đời. Cũng yêu thương, cũng hờn ghen, cũng hình hài xấu đẹp. Nhưng sự phản ánh đó không phải là cái sao chép nguyên xi. Nhà văn mượn nguyên màu cuộc sống rồi sáng tạo tưởng tượng thêm để tạo ra nhân vật của mình. Chị Ràng – người phụ nữ liệt sĩ trung kiên ở vùng đất Hòn chính là nguyên mẫu của chị Sứ trong Hòn đất (Anh Đức) nhưng chị Ràng không đẹp bằng chị Sứ và cũng không có tình mẫu tử xúc động như chị Sứ. Mối quan hệ giữa chị Ràng và chị Sứ cũng là mối quan hệ giữa cuộc đời và văn học. Cuộc đời là nơi khởi đầu và cũng là hướng đi tới của văn học. Văn học viết về cuộc đời và đồng thời cũng là tập hợp từ cuộc đời. Chính vì thế nhân vật mà mỗi tác giả nhào nặn hư cấu nên thường có giá trị điển hình cho con người của một xã hội, một thời đại. Đó chính là nét khác biệt giữa con người trong tác phẩm và trong cuộc đời. Sức sống của nhân vật điển hình – một con người này mà cũng nhiều người kia – chính là sức sống của một tác phẩm văn học. Và nhiều lúc nó còn thật nữa. Những Tú Bà, Sở Khanh, Thị Nở, Xuân tóc đỏ… cho tới giờ phút này không còn là một danh từ riêng chỉ tên nhân vật nữa mà đã trở thành một tính từ chỉ bản chất một loại người, tồn tại trong cuộc đời tự nhiên như đã bước ra từ tác phẩm vậy. Nói như vậy để thấy rằng, nhân vật điển hình là yếu tố rất quan trọng đối với từng tác phẩm. Nó quyết định sự trường tồn của tác phẩm truyện và của tên tuổi tác giả. Mỗi nhà văn chỉ mong muốn để lại cho đời một, hai nhân vật điển hình mức độ cao nhằm làm trong sạch hơn tâm hồn con người theo đúng bản chất và chức năng của văn học: Văn học là nhân học.

Cái điều tưởng là dễ hiểu ấy cứ sống mãi trong mỗi người như sự trường tồn của cuộc đời, của văn học. Mỗi trang văn là mỗi trang đời. Và mỗi trang đời ấy, được viết từ những mẫu, những mảnh con người. Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà Đời rơi vãi (Chế Lan Viên) cũng như mãi mãi không có thứ văn chương nào nằm ngoài quy luật của sự sáng tạo: Nghệ thuật vị nhân sinh và Văn học là nhân học.

Xem thêm nhiều bài hơn tại : Đề Thi

Leave a comment