Hướng dẫn soạn bài: Ca dao hài hước
Hướng dẫn soạn bài: Ca dao hài hước
Mời các bạn học sinh tham khảo thêm:
Hướng dẫn soạn bài: Lời tiễn dặn
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
Các bài ca dao hài ớc đều có cách khắc họa nhân vật rất điển hình, sử dụng nhiều yếu tố, chi tiết cời điệu hóa, cách dựng cảnh rất bài tình… để tạo ra những nét hài ớc hóm hỉnh mà châm biếm sâu cay.
II. RÈN KĨ NĂNG
1. Có thể sắp xếp bốn bài ca dao thành 2 nhóm :
a) Cưới xin hôn lễ là một chuyện vô cùng hệ trọng và có ý nghĩa đối với cuộc đời của mỗi con người. Nó thường được chuẩn bị chu đáo và cẩn thận. Thế nhưng việc dẫn cưới và thách cưới ở đây đều rất khác thường. Thực ra nó là hai màn tự trào về cảnh nghèo của người lao động. Chàng trai mở đầu màn dẫn cưới bằng rất nhiều điều “to tát”(dẫn voi, dẫn trâu, dẫn bò). Thế nhưng chàng lại viện đủ lí do (mà lí do nào cũng hợp lí:dẫn voi…sợ quốc cấm, dẫn trâu…sợ họ máu hàn, dẫn bò…sợ họ nhà nàng co gân) để khước từ tất cả những việc làm này. Vậy là đám cưới lí ra có voi, có trâu, có bò nhưng rồi chẳng có gì cả. Không những vậy, chàng trai kia còn táo bạo “nhất quyết” đùa cợt đến cùng:
Miễn là có thú bốn chân Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng
Lời đáp của cô gái cũng… chẳng vừa. Thách cưới mà lại thách “một nhà khoai lang” thì dễ đấy nhưng cũng có khác nào làm khó người ta. Song điều quan trọng không phải ở điểm này mà là ở chỗ cô gái hiểu “hoàn cảnh” của nhà em và nhà anh… cũng giống nhau thôi. Và như thế đám cưới chỉ cần một “nhà khoai lang” là cũng quá đủ rồi.
Qua lời thách cưới và lời dẫn cưới, chúng ta có thể thấy ở đây người nông dân đã mang cái nghèo của chính mình ra để mà đùa cợt. Tiếng cời ấy hướng vào chính họ nhưng cũng là để cho họ quên đi cảnh khổ mà lạc quan yêu đời và ham sống hơn.
b) Bài ca dao có giọng hài ước dí dỏm, đáng yêu là nhờ những yếu tố nghệ thuật :
Miễn là có thú bốn chân Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.
2. So với tiếng cười trong bài 1, tiếng cười ở các bài 2, 3, 4 là tiếng cười đả kích, châm biến, phê phán xã hội.
Nó hướng vào những thói hư tật xấu của một bộ phận trong nội bộ nhân dân. Những tật xấu ở đây tuy không đến mức bị đả kích một cách quyết liệt. Nhưng trong khi nhẹ nhàng, thân tình nhắc nhở, thái độ của nhân dân ta cũng không kém phần sâu sắc. Hai đối tượng được dẫn ra để cười cợt ở đây là những người chồng lười nhác, vô dụng và những người vợ vô duyên xấu tính nhưng lại ưa nịnh hót.
Có thể thấy nét riêng hài ước của từng bài :
Làm trai cho đáng sức trai Khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng.
Tiếng cười trong câu thơ này bật lên từ nghệ thuật phóng đại và thủ pháp đối lập. Người ta có thể yếu ớt nhưng chắc chắn không ai yếu đến mức “khom lưng chống gối” (ráng hết sức) để “gánh hai hạt vừng” (hai vật quá nhỏ) như vậy. Vậy ra cách nói kia chỉ là một so sánh kín đáo để chế nhạo những kẻ lười nhác trong lao động. Thông điệp mà bài ca dao muốn nhắc nhở những hạng người kia là hãy sống sao cho mạnh mẽ, vững vàng. Làm trai không được ỷ lại, không nên sống nhờ vào người khác.
Chồng người đi ngợc về xuôi Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.
Hướng mũi tên đả kích vào loại đàn ông lời nhác, không có chí lớn. Nó có khác gì chú mèo kia cứ hàng ngày ăn rồi lại nằm cuộn tròn nơi xó bếp. Là người chủ của gia đình mà lời nhác, vô tích sự như thế thì hỡi ôi! thảm hại biết chừng nào.
– Bài 4 là bài ca dao chế giễu loại phụ nữ đỏng đảnh, vô duyên. Tiếng cười của bài ca dao lại một lần nữa chủ yếu được xây dựng dựa trên nghệ thuật phóng đại và những liên tưởng phong phú của tác giả dân gian. Đằng sau tiếng cười hài ước, giải trí, mua vui, tác giả dân gian vẫn muốn thể hiện một lời châm biếm nhẹ nhàng tới loại phụ nữ vô duyên đỏng đảnh – một loại người không phải không có trong xã hội.
3. Những biện pháp nghệ thuật thường được sử dụng trong ca dao hài ước:
4. Lời thách cưới của cô gái : “Nhà em thách cưới một nhà khoai lang” là một lời ứng xử khôn khéo, thông minh. Như trên đã phân tích, cô gái không những không mặc cảm mà còn bằng lòng với cảnh nghèo, tỏ ra vui và thích thú trong lời thách cưới (dù chỉ là lời đối đáp nam nữ trong dân ca).
Lời thách cưới ấy là tiếng cười tự trào của người lao động. Nó tô đậm vẻ đẹp tâm hồn, sự vô tư, hồn nhiên và niềm lạc quan yêu đời của họ ngay trong cảnh nghèo nàn.
5. Tham khảo một số bài ca dao hài ước phê phán dưới đây:
– Lấy chồng cho đỡ nắng mưa Chẳng ngờ chồng lại ngủ trưa đến giờ.
– Gái sao chồng đánh chẳng chừa Đi chợ vẫn giữ cùi dừa bánh đa.
– Bực mình chẳng muốn nói ra Muốn đi ăn cỗ chẳng ma nào mời
– Anh đừng chê thiếp xấu xa, Bởi chưng bác mẹ sinh ra thế này. Anh ham xóc đĩa cò quay, Máu mê cờ bạc, lại hay rượu chè.
– Lấy chồng từ thuở mời lăm Chồng chê tôi bé chẳng nằm cùng tôi.
– Sông bao nhiêu nước cũng vừa Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng
– Tối tối chị giữ mất buồng Cho em manh chiếu, nằm suông chuồng bò Mong chồng chồng chẳng xuống cho Đến cơn chồng xuống gà o o gáy dồn.
– Thầy cúng ngồi cạnh giường thờ Mồm thì lẩm bẩm tay sờ đĩa xôi.
– Số cô chẳng giàu thì nghèo Ngày ba mơi tết thịt treo trong nhà Số cô có mẹ có cha Mẹ cô đàn bà cha cô đàn ông…
Xem thêm nhiều bài hơn tại : Đề Thi