Soạn bài: Lẽ ghét thương (mẫu 1 )

0

Soạn bài: Lẽ ghét thương

(Trích: truyện Lục Vân Tiên – Nguyễn Đình Chiểu)

Nhờ nghệ thuật dùng điệp từ kết hợp với nghệ thuật bố cục chặt chẽ, mạch lạc mà đoạn thơ đọc lên giọng điệu vừa trang nghiêm vừa thống thiết, một nét đặc trưng của điệu thơ trữ tình Nguyễn Đình Chiểu.

Mời các em học sinh tham khảo thêm bài viết:

Luyện tập Thao tác lập luận phân tích

A. Mục tiêu bài học

B. Nội dung cần đạt

I. Khái quát về tác phẩm và đoạn trích

1.Tác phẩm

a/ Hoàn cảnh sáng tác

– Khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX khi ông bị mù về dạy học và chữa bệnh cho dân ở Gia Định.

b/ Thể loại và nội dung

– Thể loại: truyện Nôm bác học nhưng mang nhiều tính chất dân gian

– Nội dung: xoay quanh cuộc xung đột giữa thiện và ác nhằm đề cao tinh thần nhân nghĩa, thể hiện khát vọng lí tưởng của tác giả và nhân dân đương thời về 1 xã hội tốt đẹp

-> Lục Vân Tiên là nhân vật tiêu biểu cho tinh thần và khát vọng ấy của nhân dân

2. Đoạn trích

a/ Đọc

b/ Xuất xứ và nội dung đoạn trích

– Xuất xứ: trích từ câu 473 -> 504 của tác phẩm (2082 câu)

– Nội dung: kể lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và 4 chàng nho sinh (Vân, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm) khi họ cùng uống rượu và làm thơ trong quán của ông trước lúc vào trường thi.

c/ Bố cục

II. Đọc hiểu văn bản

-> Có dáng dấp nhà nho ở ẩn, làu thông kinh sử, tính tình bộc trực, yêu ghét phân minh rõ ràng. Ông Quán tiêu biểu cho trí tuệ, tình cảm và tư tưởng của nhân dân miền Nam và của chính nhà thơ. Ông Quán là một trong những hoá thân của cụ Đồ Chiểu. Một nhân vật phụ nhưng để người đọc nhớ mãi.

– Quan niệm thương ghét của ông Quán:

“vì chưng hay ghét cũng là hay thương” – mối quan hệ giữa thương và ghét. Thương là gốc, vì thương mà ghét.

-> đó là quan niệm hết sức phù hợp với tâm lí của con người cùng tồn tại trong một con người…

– Lời trực tiếp của ông Quán:

+ Ghét việc tầm phào: việc vu vơ, chẳng có nghĩa lí gì, chẳng đâu vào đâu.

+ Ghét vào tận tâm: ghét đến mức tột cùng

-> Việc tầm phào là việc chẳng có nghĩa lí gì, chẳng đâu vào đâu. Ông muốn chỉ cái việc nhỏ nhen của Bùi Kiệm, Trịnh Hâm khi chúng Vân Tiên, Tử Trự làm nhanh và hay lại ngờ là viết tùng cổ thi. Thực ra đó chỉ là cái cớ để ông bộc lộ quan điểm của mình về lẽ ghét thương.

– Đối tượng ghét:

+ Đời Kiệt, Trụ: mê dâm, hoang dâm vô độ. Vua Kiệt (cuối đời Hạ), Trụ (cuối đời Thương)cho đào ao rượu, núi thịt, đào hầm để bày trò dâm loạn.

+ Đời U, Lệ: đa đoan, lắm chuyện rắc rối. U, Lệ vương đa đoan (cuối thời Tây Chu) đã sai đốt lửa hiệu trên núi Li Sơn để quân chư hầu tưởng Kinh Đo có biến cùng kéo đến ứng cứu, cốt để người đẹp Bao Tự bật cười, cho người xé lụa cả ngày để Bao Tự nghe.

+ Đời Ngũ bá, thúc quý: lộn xộn, chia lìa, đổ nát, chiến tranh liên miên. 5 vua chư hầu thời Xuân Thu tranh giành ngôi bá chủ gây nên cảnh binh lửa loạn lạc khiến dân lành khốn đốn.

=> Điểm chung của các triều đại : Chính sự suy tàn, vua chúa say đắm tửu sắc, không chăm lo đến đời sống của dân, làm dân khổ.

– Nghệ thuật:

+ Điệp từ, điệp ngữ: dân, ghét đời

+ Liệt kê: các triều đại chính quyền Trung Quốc

-> cơ sở: vì thương dân sâu sắc mà ông ghét đến tột cùng cảm xúc (cay, đắng, tận tâm)

-> Điểm chung: Họ là những bậc tiên hiền, thánh nhân, ngời sáng về tài năng và đạo đức, có chí muốn hành đạo giúp đời, giúp dân, nhưng đều không đạt sở nguyện.

– Nghệ thuật:

+ Điệp từ: thương (8 lần)

+ Liệt kê: bậc thánh nhân có tấm lòng vì dân

-> Cơ sở của tình cảm thương : Xuất phát từ tấm lòng thương dân sâu nặng, mong muốn cho dân được sống yên bình, hạnh phúc, người tài đức sẽ thực hiện được lí tưởng

– Nghệ thuật:

+ Tiểu đối: nửa phần ghét >

-> hai tình cảm thương ghét đan cài, tiếp nối sâu nặng trong tâm hồn tác giả; sự phân minh rõ ràng giữa hai trạng thái tình cảm.

– Cơ sở của 2 tình cảm này xuất phát từ cuộc đời, từ thực tế, từ tình cảm yêu thương nhân dân, mong muốn nhân dân được sống tự do thái bình.

Xem thêm nhiều bài hơn tại : Đề Thi

Leave a comment