Phân tích truyện Vợ chồng A Phủ

0

Xem thêm: Phân tích nhân vật A Phủ trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài

I. Mở bài

– Tô Hoài là nhà văn có lối trần thuật hóm hỉnh, ông có sở trường về loại truyện phong tục và hồi kí.

– Vợ chồng A Phủ được in trong tập Truyện Tây Bắc, tác phẩm là sự phản ánh nỗi khổ của đồng bào Tây Bắc dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đồng thời ngợi ca vẻ đẹp con người nơi đây.

II. Thân bài

1. Nhân vật Mị

a. Trước khi trở thành con dâu gạt nợ

– Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo. Mị đã từng yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu. Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.

b. Từ khi trở thành con dâu gạt nợ

– Nguyên nhân: món nợ truyền kiếp từ thời cha mẹ Mị, tục cướp vợ của người Mông đem về cúng trình ma. Người lao động bị cả cường quyền và thần quyền buộc chặt.

– Mị phải chịu những đày đọa về thể xác: phải làm việc không kể ngày đêm, “không bằng con trâu con ngựa” ; bị đánh đập dã man: bị trói, đạp vào mặt, …

– Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian (hình ảnh ô cửa sổ), sống lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”.

– Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:

+ Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, ..) đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ.

+ Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm …”, với khát khao tự do, thắp sáng căn phòng tối, muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày.

+ Khi bị A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.

– Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.

– Khi A Phủ làm mất bò, bị phạt trói đứng:

+ Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.

+ Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, … phải chết”.

+ Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ. Mị sợ cái chết, sợ nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát.

– Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.

2. Nhân vật A Phủ

– Số phận: mồ côi cha mẹ, không còn người thân, lớn lên đi làm thuê, sau đó trở thành người ở gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.

– Khi trở thành người ở gạt nợ:

+ Nguyên nhân: đánh con quan, thua cuộc trong vụ xử kiện quái gở.

+ A Phủ chịu sự đày đọa về mặt thể chất: phải làm những công việc nặng, nguy hiểm: “đốt rừng, cày nương, săn bò tót, …”, không có giá trị bằng một con bò, làm mất bò mà bị trói đứng đến chết.

– Tích cách:

+ Lúc nhỏ mạnh mẽ, gan bướng: khi bị bán xuống cánh đồng thấp lại trốn lên núi cao

+ Lớn lên là chàng trai khỏe mạnh chăm chỉ, tháo vát, biết làm mọi công việc. Là người biết bất bình trước bất công (đánh A Sử), kháo khát tự do (nén đau để vùng chạy khi được cắt dây trói).

– Nhận xét: A Phủ được nhìn từ bên ngoài với những lời nói ngắn gọn, hành động dữ dội mạnh mẽ.

III. Kết bài

– Nghệ thuật: ngôn ngữ, cách nói đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.

-Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.

Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học hiện đại Việt Nam đồng thời là một tấm gương cho con người về sức sáng tạo. Cách kể chuyện của Tô Hoài có sức hấp dẫn riêng ở lối kể hóm hỉnh với lời văn giản dị tinh tế mà giàu chất thơ. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm ghi lại tên tuổi cũng như dấu ấn văn xuôi của nhà văn Tô Hoài.

“Vợ chồng A Phủ’’ được rút ra trong tập “Tây Bắc” kể về cuộc sống của Mị và A Phủ trong nhà thống lí Pá Tra làm nô lệ. Mị trở thành dâu nhà thống lí, phải sống một cuộc sống không giống con người. ở đó, Mị không chỉ bị giam cầm về thể xác mà còn bị giam cầm cả về tâm hồn của mình. Mị xuất hiện trong lời kể của nhà văn Tô Hoài trong khung cảnh của cuộc sống giàu sang nhưng lại đối lập với tâm thế bên trong con người Mị là mặt buồn rười rượi. Dưới ngòi bút của Tô Hoài gieo vào lòng người đọc những cảm xúc mãnh liệt về số phận con người mà cụ thể là nhân vật Mị. Sự xuất hiện của Mị giúp người đọc hình dung ra số phận của những kiếp người lao động dưới ách thống trị của bọn phong kiến chúa đất.

Bằng kết cấu hồi tưởng, trần thuật ở hiện tại sau đó ngược về quá khứ Tô Hoài tạo được những dấu ấn cá nhân riêng qua cách kể chuyện đầy linh hoạt của mình. Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra Mị là một cô gái xinh đẹp, nết na, có tài thổi sáo. Đặc biệt, Mị còn là cô gái rất giàu lòng tự trọng yêu đời và tràn đầy sự sống, luôn muốn làm chủ và muốn tự định đoạt cuộc đời của mình. Mị trở thành nỗi niềm ao ước của nhiều trai bản trong làng. Thế nhưng cuộc đời lại xô đẩy Mị, trái lại với tất cả những gì mà cô mong muốn. Chỉ vì muốn giúp cha mẹ trả món nợ truyền kiếp mà Mị bỗng dưng trở thành dâu nhà họ Lý kia. Bị ràng buộc về món nợ Mị còn bị ràng buộc cả về những tập tục hôn nhân cổ hủ. Chồng chất những đau khổ cho cô gái trước đây từng ao ước có một cuộc sống do mình định đoạt. Chỉ đến đây thôi người ta đã nhìn thấy cái xã hội mà bọn lang đạo, phong kiến chúa đất miền núi đã bóc lốt sức lực, tước đi quyền tự do của biết bao nhiêu số phận người lao động nghèo. Ba tiếng “dâu gạt nợ” như hé mở cho người đọc một cuộc sống chồng chất những đau thương, những bi kịch mà Mị đang phải gánh chịu.
Khi sống cuộc sống làm dâu trong nhà thống lí Mị phải chịu những đau khổ về thể xác. Mị bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn, Mị phải làm việc suốt ngày đêm, hết ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác. Mị bị cột chặt trong vòng vây của công việc. Dưới ngòi bút kể của nhà văn Tô Hoài Mị hiện lên như một công cụ biết nói, một cỗ máy làm việc trong nhà thống lí. Để rồi đã hơn một lần Mị thổn thức mình không bằng con trâu con ngựa. Cuộc sống của Mị không giống như cuộc sống của con người, Mị đang dần bị vật hóa. Không chỉ vậy Mị còn bị A Sử- chồng của mình đánh đập, hành hạ một cách vô lý. Đỉnh điểm trong đêm tình mùa xuân khi Mị muốn đi chơi nhưng lại bị A Sử trói đứng vào cột. Tô Hoài đứng dưới vị trí là một người ngoài cuộc như quay lại những thước phim mà ông ti mỉ thu được. Tô Hoài miêu tả tỉ mỉ những hành động tàn nhẫn của A Sử lại càng lột tả hết được bản chất tàn bạo, phi nhân tính của giai cấp thống trị mà A Sử là một đại diện tiêu biểu hơn bao giờ hết. Do vậy, qua đây mà ngòi bút của Tô Hoài có sức tố cáo gay gắt. Thêm nữa, cuộc sống của Mị còn bị trói buộc và đày đọa cả về mặt tinh thần. Mị bị ngăn cách với thế giới bên ngoài, mất đi ý niệm về thời gian, bị tước đi tất cả quyền làm người, quyền được sống, được giao tiếp với thế giới bên ngoài. Mị đã hoàn toàn bị vật hóa, bị khống chế bởi thế lực và sức mạnh của thần quyền. Đến đây thôi, hình ảnh Mị hiện lên chồng chất những đau thương và bi kịch mà qua đó Mị là một hiện thân cho người phụ nữ miền núi, người dân lao động dưới ách thống trị của bọn lãnh chúa.

Tiếp đến trong đêm tình mùa xuân cũng là thời khắc sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy. Âm thanh tiếng sáo gọi dậy khát khao yêu đương trong Mị bấy lâu. Nó dậy tiếng lòng, tiếng hát từ trong sâu thẳm Mị. Để rồi cũng gọi dậy khát khao yêu đương, hạnh phúc, tuổi trẻ và đánh thức quyền sống con người bên trong Mị. Tô Hoài đã sử dụng nghệ thuật độc thoại nội tâm, lách sâu ngòi bút của mình vào đời sống tâm hồn miêu tả Mị. Nhà văn miêu tả chi tiết từng hành động “uống từng ngụm rượu” cho đến sự thay đổi trong tâm trạng của Mị để thấy rằng con người kia đang muốn làm chủ số phận của mình, muốn vượt lên số phận của chính mình.

Sau đêm tình mùa xuân nổi loạn không thành, Mị tiếp tục trở về câm lặng như xưa, tiếp tục công việc khổ sai làm tê liệt ý thức của con người, đánh đập, hành hạ làm tê liệt ý thức phẩm giá, cầm tù làm tê liệt những nhu cầu sống cơ bản của con người và bóng ma thần quyền đã tiêu diệt đi ý thức phản kháng của con người. Và chính điều đó lại là nghị lực cho Mị trong đêm đông cứu A Phủ, thoát khỏi cuộc sống mà Mị và A Phủ không được sống làm con người. Những thay đổi trong tính cách và tâm lý của Mị đều được nhà văn Tô Hoài làm rõ tạo nên những bất ngờ cho người đọc. Miêu tả sức sống tiềm tàng trong đoạn văn Mị cứu A Phủ cho thấy hiện thân của sức sống tiềm tàng của nhân dân lao động miền núi phía bắc. Nhà văn không chỉ miêu tả đồng cảm số phận nhân vật mà còn như hé mở cho họ một lối giải thoát từ đau khổ, đáng thương đến tự do và làm chủ cuộc sống của mình. Qua đó, nhà văn ca ngợi sức mạnh của Đảng, cách mạng giúp con người được làm chủ cuộc sống của mình.

Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 trong một gia đình thợ dệt thủ công ở làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (quê ngoại), nay là phường Nghĩa Đô, quận cầu Giấy, Hà Nội. Quê nội của ông ở Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ). Thời trai trẻ, ông phải vất vả kiếm sống bằng nhiều nghề như dạy kèm, thợ thủ công, bán hàng, làm kế toán hiệu buôn… Vốn có năng khiếu văn chương nên Tô Hoài sáng tác rất sớm và được dư luận chú ý ngay từ những tác phẩm đầu tay, nhất là cuốn truyện viết cho thiếu nhi Dế Mèn phiêu lưu kí.

Năm 1943, Tô Hoài tham gia Hội Văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông viết báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc. Sau hơn bảy mươi năm miệt mài lao động nghệ thuật, Tô Hoài đã sáng tác và xuất bản gần 200 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, tự truyện, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác… Do có trình độ hiểu biết sâu rộng và vốn sống phong phú về phong tục, tập quán của nhiều dân tộc ở nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước nên sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả những tình cảnh của đời thường. Tác phẩm của Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng giàu có lạ thường. Năm 1996, Tô Hoài được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.

Tác phẩm chính: Dế Mèn phiêu lưu kí, (truyện cho thiếu nhi, 1941), Ổ chuột (tập truyện, 1942), Quê người (tiểu thuyết, 1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944), Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953), Miền Tây (tiểu thuyết, 1967), Cát bụi chân ai (hồi kí, 1992), Chiều chiều (tự truyện, 1999), Ba người khác (tiểu thuyết, 2006)..

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc (1953), được tặng giải Nhất – giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc có sức lôi cuốn, hấp dẫn thực sự bởi giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ.

Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ. Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. A Phủ vì dám đánh A Sử, con trai thống lí nên bị phạt vạ làm đầy tớ không công. Cùng cảnh ngộ đau khổ, Mị đã cứu A Phủ. Hai người trốn khỏi nhà Pá Tra, tìm đến tận Phiềng Sa, thành vợ thành chồng, cùng nhau xây dựng cuộc đời mới. Được cán bộ cách mạng giác ngộ, Mị và A Phủ tham gia lực lượng du kích bảo vệ khu giải phóng.

Dưới thời thực dân phong kiến, bọn lang đạo chúa đất ở vùng cao mặc sức làm mưa làm gió. Chúng nắm trong tay mọi quyền lực, tự cho rằng mình có quyển sinh, quyền sát nên coi tính mạng người dân như cỏ rác. Cha con tôn thống lí Pá Tra với tính cách bạo ngược và lối sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt người nghèo tiêu biểu cho giai cấp thống trị ở miền núi. Cũng như bao tên chúa đất khác, thống lí Pá Tra dùng mọi thủ đoạn hiểm độc trong việc áp bức, bóc lột dân chúng, đẩy họ vào cảnh bần cùng để rồi biến họ thành nô lệ. Mị và A Phủ là hai trong nhiều nạn nhân khác của hắn.

Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ được thể hiện qua số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ.

Mị là cô gái xinh đẹp, khỏe mạnh, được nhiều trai bản yêu mến. Cuộc sống tốt lành đang chờ cô phía trước, nhưng chỉ vì món nợ của cha mẹ vay thống lí từ ngày cưới cho đến nay vẫn chưa trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Hắn coi Mị như một thứ đồ vật để thay thế cho số tiền mà cha mẹ cô còn nợ hắn.

Mở đầu tác phẩm, tác giả đã miêu tả hình ảnh người con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Một cô gái cô độc, âm thầm gần như lẫn vào, giữa các sự vật vô tri: cái quay sợi, tảng đả, tàu ngựa… trong khung cảnh đông đúc, tấp nập của nhà quan thống lí. Là con dâu của một gia đình quyền thế có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng, vậy tại sao lúc nào cô gái ấy cũng buồn?! Tác giả đã tạo ra tình huống có vấn đề để dẫn dắt người đọc cùng tìm hiểu số phận của nhân vật chính trong tác phẩm.

Trước hết, Tô Hoài kể về cảnh ngộ éo le của gia đình Mị, về món nợ truyền kiếp khiến Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Tiếng là con dâu nhà quan nhưng thực chất Mị là con nợ, là đày tớ, là nô lệ. Cô đã bị cúng “trình ma” nhà thống lí nên không thể chạy đâu cho thoát, sẽ phải sống khốn khổ cho đến tàn đời. Người con dâu gạt nợ ấy bị đày đọa bởi những công việc lao động khổ sai hằng ngày, nhưng đáng sợ hơn cả là sự ràng buộc vĩnh viễn về tinh thần khiến cô cảm thấy mình còn sống mà như đã chết.

Mị đã linh cảm về số phận bất hạnh của mình. Lúc đầu, cô tự tin cho rằng mình có thể trả được món nợ của gia đình. Cô van xin cha: Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu. Nhưng sự thông minh và lòng can đảm của một cô gái mới lớn không chống được mưu chước thâm độc của cha con tên thống lí. Mị đã bị tròng vào cổ hai cái thòng lọng vô hình là làm con nợ và làm con dâu tên thống lí Pá Tra tham lam, độc ác.

Phải sống với A Sử, kẻ mà cô căm ghét và oán hận là nỗi khổ sở, đau đớn không thể nguôi ngoai của Mị. Suốt mấy tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc. Mị đã định ăn lá ngón để tự tử. Trước khi chết, cô đã về lạy cha, nhưng lời kêu van thống thiết của cha già: Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương ngô giả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi! khiến Mị phải nuốt nỗi cay đắng, tủi nhục vào lòng, đành quay trở lại nhà thống lí.

Quãng đời Mị sống với cha con tên thống lí là chuỗi ngày vất vả và đau khổ. Kẻ ác đã cướp mất tuổi thanh xuân của Mị, biến cô gái xinh đẹp, hồn nhiên thành người đàn bà héo úa, lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi… Mị sống âm thầm lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.

Cuộc sống của Mị ngập chìm trong đau khổ triền miên. Không có ai để chia sẻ tâm tình, cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm đông dài và buồn. Tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo… Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp Mị xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ cuộc đời cô.

Âm thầm và câm lặng như một cái bóng, đó là cách sống mà Mị lựa chọn, cho dù nó trái ngược hoàn toàn với bản tính sôi nổi, yêu đời của cô gái một thời xinh đẹp và tài hoa. Bây giờ, Mị không nghĩ đến chuyện chết nữa vì đã quá quen với cái khổ rồi và cho rằng mình còn sống mà như đã chết bởi cuộc sống chẳng còn nghĩa lí gì. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Cái ác của bọn thống trị là đã giết chết phần tốt đẹp trong con người Mị. Mị bị đày đọa đến mức tinh thần phản kháng cũng dần dần tê liệt. Tiếng thở dài của cô thể hiện thái độ buông xuôi phó mặc cho số phận: Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Con trâu, con ngựa nhà giàu đêm còn được nghĩ, còn cô không lúc nào ngớt việc.

Bị biến thành một thứ công cụ lao động mà nỗi cực nhục mà Mị phải chấp nhận và chịu đựng. Nhưng sự ê chề của kiếp sống nô lệ chưa dừng lại ở đó, Mị còn phải chịu sự đày ải kéo dài về tinh thần. Cuộc đời ngột ngạt, tối tăm của Mị chẳng khác gì hình ảnh: … Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.

Nhà văn Tô Hoài không đơn thuần phản ánh bi kịch mà còn đi sâu miêu tả và thể hiện sức sống tiềm tàng dẫn tới hành động phản kháng mãnh liệt và táo bạo của Mị. Trong đêm xuân, tâm trạng của Mị xốn xang, bồi hồi khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha, khi khát vọng được yêu, được sống bừng dậy mãnh liệt trong lòng.

Sự hồi sinh của nhân vật Mị được tác giả miêu tả sâu sắc và tinh tế, phù hợp với tính cách của người con gái ấy. Những yếu tố bên ngoài tác động vào tâm lí nhân vật như khung cảnh mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, bữa rượu cúng ma đón năm mới… đã thức tỉnh tất cả cảm xúc của Mị: căm ghét sự bất công, tàn bạo, khao khát một cuộc sống tự do, hạnh phúc.

Trong đêm xuân, tiếng sáo, tiếng khèn, tiếng reo hò náo nức của đám trai gái và lũ trẻ con tụ tập ở sân chơi đầu làng vẳng lại: Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Cái không khí nồng nàn của mùa xuân như được tăng thêm bởi bữa rượu ngày Tết ở nhà thống lí với tiếng chiêng đánh ầm ĩ và đám người nhảy đồng, người hát… Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say… Mị đang sống trong một trạng thái khác thường. Men rượu làm cho Mị lâng lâng say, nhưng tâm hồn cô thì từ từ thức tỉnh sau bao tháng ngày câm lặng, mụ mị vì sự đọa đày. Cái cách uống rượu ực từng bát khiến người ta nghĩ như thể Mị đang cố uống cho cạn những đắng cay của phần đời đã qua và uống sự khao khát của phần đời chưa tới. Men rượu và những âm thanh náo nhiệt của ngày Tết khiến Mị đã vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh bấy lâu nay. Dấu hiệu tích cực đầu tiên là Mị nhớ lại những kỉ niệm đẹp của thời con gái chưa xa, với những bữa rượu bên bếp lửa ấm áp, với tiếng sáo dặt dìu, du dương của bao nhiêu trai làng ngày đêm đi theo Mị…

Nhớ lại quá khứ có nghĩa là Mị đã thoát ra khỏi tình trạng sống mà như đã chết. Niềm vui đã trở lại với Mị: Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén giờ đây trỗi dậy mạnh mẽ, không gì ngăn nổi.

Xuất hiện trong tâm trí Mị đầu tiên là một ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thật: Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa,.., Nghịch lí trên cho thấy khi niềm khao khát sống được khơi lên, nó sẽ trở thành một mãnh lực xung đột gay gắt với trạng thái vô nghĩa của thực tại. Ý nghĩ về cái chết lúc này là biểu hiện của sự phản kháng thực tại, chứng tỏ rằng Mị đã ý thức sâu sắc về tình cảnh đau đớn, tủi nhục của mình.

Trong khi đó, tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, mời gợi. Tiếng sáo là biểu tượng của sự sống, tình yêu, tự do mà bấy lâu nay dường như Mị đã cố quên, nay nó đang trở lại. Tiếng sáo được miêu tả song hành với diễn biến tâm trạng nhân vật Mị, nó chính là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa vẫn đang âm ỉ cháy trong lòng cô gái luôn khao khát tình yêu. Tiếng sáo đầy ám ảnh đã nhập vào thế giới tâm hồn Mị. Giờ đây, trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo.

Sức sống trỗi dậy trong con người Mị như những đợt sóng ào ạt, đợt sau mạnh mẽ hơn đợt trước và đã biến thành hành động: Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Có thể coi đây là một hành động có ý nghĩa thức tỉnh: Mị đã tự thắp lên một ngọn đèn soi rọi vào cuộc sống tối tăm của mình để tìm ra lối thoát. Con người đích thực trong Mị đã sống lại, hòa lẫn với con người thực tại, khiến tâm trạng cô chập chờn, bất định. Mị vừa sống với thực tại, vừa sống với quá khứ. Hành động này thúc đẩy hành động khác tiếp theo như một phản ứng dây chuyền.

Dường như không đếm xỉa gì đến những ràng buộc khắt khe của cường quyền, thần quyền, những xiềng xích tàn bạo của nhà thống lí Pá Tra, Mị hành động như một con người tự do theo suy nghĩ, cảm xúc của mình. Cô quấn lại tóc, lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách, sửa soạn đi chơi Tết.

Giữa lúc khát vọng sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt nhất thì cũng là lúc nó bị dập vùi phũ phàng nhất: A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại. Trong từng động tác, người đọc thấy toát lên sự tàn ác đến thản nhiên, lạnh lùng của một kẻ đã mất hết nhân tính.

Suốt đêm, Mị bị trói đứng vào cột. Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại đau khổ, tủi nhục. Lúc mới bị trói, Mị vẫn thả hồn theo tiếng sáo và những đám chơi Tết ngoài kia: Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Mị hầu như quên là mình đang bị trói, quên những sợi dây trói thít vào da thịt đau nhức. Trong giây phút khát vọng sống thôi thúc mãnh liệt, Mị đã vùng bước đi, nhưng Mị không thể thoát ra được. Sự đối lập gay gắt giữa ước mơ bay bổng và thực tại phũ phàng hiện ra trong hai âm thanh trái ngược: tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khốc: Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

Thực tại đen tối đã lấn át, bóp nghẹt những ước mơ, khát vọng tươi sáng. Nhưng nhà văn không để nhân vật của mình tuyệt vọng. Điều kì diệu là dẫu trong hoàn cảnh cùng cực nhất thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được sức sống của con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt. Trong sâu thẳm tâm hồn cô vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời. Phản ứng tự phát ban đầu chưa thể giải phóng được cuộc đời Mị nhưng những giây phút trỗi dậy lúc này có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro tàn, có ngày sẽ bùng cháy dữ dội.

Ngày ấy đã đến với Mị. Trước cảnh một con người khí phách ngang tàng như A Phủ mà phải bị đánh, bị trói và lặng lẽ khóc cho thân phận tủi nhục của mình, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này… Cỡ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế… Mị không cầm lòng được, Mị động lòng thương người, thương thân. Mị nhớ đến những khổ sở, hãi hùng mà mình đã phải chịu đựng suốt mấy năm qua. Nước mắt đau khổ của A Phủ khơi dậy nỗi đau lắng chìm trong lòng Mị. Cảm thương số phận A Phủ và căm thù cha con tên thống lí độc ác, Mị quên cả sợ hãi nên đã có hành động táo bạo bất ngờ là cắt dây trói cứu A Phủ.

Hành động đó tuy bộc phát nhưng hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Mị đã từng hứa gắng làm rẫy để trả nợ thay bố, đã cắn răng chịu khổ nhục làm con dâu trừ nợ, từng định tìm đến cái chết để giải thoát, thì sao Mị lại không dám chết để cứu một người vô tội cùng cảnh ngộ như mình?

Mị cắt dây trói cứu A Phủ và đột ngột quyết định chạy theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Hành động ấy chứng tỏ khi khát vọng sống tiềm tàng trong con người bừng dậy, nó sẽ là ngọn lửa dữ dội không thể dập tắt. Nó sẽ biến thành thái độ phản kháng giai cấp thống trị. Những con người bị áp bức sẽ vùng lên đối đầu với bạo lực, cường quyền để tự giải phóng khỏi thân phận nô lệ.

Đây là kết quả tất yếu của một quá trình bị dồn nén, áp bức về tinh thần, đọa đày về thể xác, bây giờ đã đến lúc phải chấm dứt. Mị cắt dây trói cứu A Phủ đổng thời cũng là tự cắt đứt sợi dây vô hình đã trói chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Một hành động bất ngờ hơn và quyết liệt hơn xảy ra ngay sau đó. Mị thoáng nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ vừa chạy đi, lập tức Mị cũng chạy theo đuổi kịp A Phủ: A Phủ cho tôi đi … Ở đây thì chết mất. Mị đã cứu A Phủ thì tại sao cô lại không tự cứu mình? Nhà văn đã miêu tả rất đúng những chuyển biến mau lẹ, tự nhiên và hợp lôgíc của tâm trạng nhân vật trong tình huống gay cấn giữa cái chết và sự sống.

Hai con người cùng cảnh ngộ đã lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi, bỏ thật xa cái địa ngục đã giam cầm, đày đọa họ suốt mấy năm trời. Từ trong cái chết, họ vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.

Cũng như Mị, nhân vật A Phủ có số phận đặc biệt. Từ nhỏ anh đã mồ côi cha mẹ, không còn ai thân thích trên đời. A Phủ đã từng bị bắt cóc đem xuống núi bán đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới mười tuổi nhưng A Phủ không thích ở dưới cánh đồng thấp, cố tìm cách trốn thoát rồi lưu lạc tới Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ trở thành chàng trai khỏe mạnh, cường tráng, chạy nhanh như ngựa, biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo. Con gái trong làng nhiều cô mê: Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu. Người ta ao ước đùa thế thôi chứ A Phủ rất nghèo, không có cha mẹ, không có ruộng nương, tiền bạc, chỉ làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày. Tục lệ cưới xin vô cùng tốn kém nên A Phủ không thể nào lấy nổi vợ.

Cuộc sống hoang dã cùng hoàn cảnh sống cực nhọc, vất vả đã hun đúc A Phủ trở thành một chàng trai có tính cách mạnh mẽ, táo bạo, can đảm và nghĩa khí. A Phủ không sợ bọn con quan mà thẳng tay trừng trị khi chúng quấy phá cuộc vui xuân của bạn bè mình. A Phủ đã nắm lấy cái vòng cổ bằng bạc có tua chỉ xanh đỏ của A sử (dấu hiệu con cái nhà quan) để kéo dập đầu nó xuống, xé áo nó ra mà đánh cho hả giận.

A Phủ đã phải trả giá rất đắt cho hành động táo tợn của mình. Trận đánh liều lĩnh, hào hứng ấy hóa ra lại là sự mở đầu cho một chặng đường khổ sở tột cùng trong đời A Phủ. Anh bị thống lí Pá Tra bắt, đánh đập và phạt vạ. Người đọc không thể quên đoạn văn tả cảnh phạt vạ với những hình ảnh, chi tiết rất đắt: động tác vuốt ngược cái đầu trọc, kéo đuôi tóc dài ra đằng trước rồi lè nhè gọi của Pá Tra; cái dáng quỳ bất động suốt một ngày đêm như hóa đá của A Phủ; cái cách hành hạ vừa dã man vừa lộn xộn của bọn tay sai, người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới… rồi lời kết án vô lí và kì cục của tên thống lí… Sự am tường những tập quán lạ lùng của vùng cao là chất liệu quý giá giúp Tô Hoài tạo dựng nên cảnh phạt vạ có một không hai trong văn học hiện đại.

Nhà văn Tô Hoài tỏ ra rất sắc sảo trong việc miêu tả con người và cuộc sống vùng cao. Cha con tên thống lí cùng lũ tay sai là hiện thân của giai cấp thống trị tàn ác, vô nhân đạo. Bọn lí dịch, quan làng, thống quản… lợi dụng chuyện A Phủ đánh A Sử để kéo đến nhà thống lí xử kiện và ăn cỗ suốt từ trưa cho đến hết đêm. Mấy chục người hút thuốc phiện rào rào. Cứ mỗi đợt chúng hút xong, A Phủ lại phải quỳ ra giữa nhà để lũ tay sai của tên thống lí xô đến đánh: Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút…

Trong đoạn văn tả cảnh phạt vạ thì chi tiết cuối cùng là chi tiết gây ấn tượng sâu sắc: Đến lúc không phải quỳ, phải đánh nữa, A Phủ được đứng lên, chân đau bước tập tễnh nhưng phải tự tay cầm dao làm thịt lợn để hầu hạ chính những kẻ đã đánh đập mình, biến mình từ nay thành nô lệ cho nhà thống lí.

Cho dù phải sống với thân phận kẻ đầy tớ trừ nợ trong nhà thống lí nhưng A Phủ vẫn là một chàng trai của tự do. Quanh năm, A Phủ bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, làm phăng phăng mọi việc. Một hôm, vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất con bò, A Phủ điềm nhiên vác nửa con bò hổ ăn dở về và bảo Pá Tra cho mượn súng đi bắn hổ, coi đó là chuyện rất dễ dàng. A Phủ không sợ bất cứ ai. Con hổ hay thống lí Pá Tra cũng vậy. Kể cả khi lẳng lặng đi lấy cọc và dây mây, rồi tự tay đóng cọc để lũ tay sai của thống lí trói đứng mình vào đó, A Phủ vẫn thản nhiên. Là người mạnh mẽ và gan góc, A Phủ không sợ cả cái chết… “

Tô Hoài phát hiện ra hai nét tính cách đối lập nhau trong con người A Phủ: một A Phủ can đảm, bất khuất và một A Phủ cam phận tôi đòi. A Phủ này biểu trưng cho phẩm chất tốt đẹp của con người, còn A Phủ kia lại biểu trưng cho sự nhục nhã. Hai mặt đối lập ấy song song tồn tại. Đó chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển nội tại của hình tượng A Phủ.

Chạy trốn khỏi Hồng Ngài, thoát khỏi ách áp bức của thống lí Pá Tra, Mị và A Phủ lại gặp phải một kẻ thù không kém phần nguy hiểm là giặc Pháp. Chúng là lũ cướp nước đồng thời cướp cả quyền tự do được sống làm người. Chúng chẳng khác gì bọn cường hào, ác bá miền núi.

Giặc Pháp càn lên núi cao, đốt nhà, cướp của, bắt người. A Phủ bị chúng cướp mất đôi lợn, bị đánh, bị bắt đi phu khiêng đá xây đồn… A Phủ căm thù giặc Pháp vì anh đã nhận thức được rằng mình là người tự do; của cải bị chúng cướp đi là mổ hôi, nước mắt của mình – phải nhớ lấy để mà trả thù.

Sống ở Phiềng Sa, Vợ chồng A Phủ mới thực sự được làm người. Họ được cán bộ A Châu giáo ngộ cách mạng. Từ một chàng trai nghèo khổ, nô lệ, A Phủ đã trở thành một du kích dũng cảm, tự tin và thực sự trở thành chỗ dựa tinh thần của Mị. Sống bên A Phủ, Mị dần dần hết lo sợ, cô vững tin vào cuộc sống mới, vào kháng chiến.

Giá trị hiện thực của truyện ngoài việc tái hiện đoạn đời khổ ải của những người nô lệ còn nói đến một sự thật xót xa: người dân bị áp bức, đè nén quá lâu sẽ bị tê liệt tinh thần phản kháng, sẽ bị đầu độc bởi tâm lí nô lệ. Bạo lực của bọn chúa đất cấu kết với thần quyền, với mê tín dị đoan, với thực dân Pháp trong giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã làm cho họ không cất đầu dậy nổi. Nhưng trong cuộc đời, có áp bức tất có đấu tranh. Mị và A Phủ cũng như bao người khác sẽ vùng lên tự giải phóng, giành quyền làm người tự do. Đoạn đời sau của Vợ chồng A Phủ đã chứng minh quy luật muôn đời ấy.

Trong giá trị hiện thực của tác phẩm đã ẩn chứa giá trị nhân đạo sâu xa. Có căm thù giai cấp thống trị và xã hội bất công, tác giả mới lên tiếng tố cáo mạnh mẽ. Có thực sự cảm thương số phận đau khổ của con người, tác giả mới viết nên những trang văn gây xúc động mạnh mẽ như vậy.

Tính nhân đạo của tác phẩm trước hết thể hiện ở sự bênh vực và cảm thông sâu sắc với số phận của những con người bất hạnh như Mị và A Phủ. Ở khía cạnh này, Tô Hoài tỏ ra có sự am hiểu sâu sắc từ đời sống vật chất đến đời sống tâm lí của đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc.

Trong khi miêu tả, bên cạnh sự cảm thông với những trớ trêu của số phận, người đọc cũng cảm nhận được khá rõ thái độ của nhà văn: tố cáo sự tàn bạo của bọn quan lại phong kiến miền núi, căm giận những thế lực chà đạp lên nhân phẩm con người. Tô Hoài còn phát hiện và trân trọng những phẩm chất cao đẹp như khát vọng tự do, hạnh phúc và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người dân miền núi.

Tô Hoài không chấp nhận để nhân vật của mình bị đẩy vào tình thế bế tắc và tuyệt vọng. Phần một khép lại với kết thúc tốt đẹp. Mị và A Phủ đã tự giải thoát. Sang phần hai của tác phẩm, họ đã thành vợ thành chồng, được sống một cuộc sống tự do ở khu du kích Phiềng Sa.

Số phận khổ đau, nô lộ của Mị và A Phủ tiêu biểu cho số phận người dân miền núi dưới chế độ cũ. Bần cùng hóa con người, chà đạp lên nhân phẩm, tình yêu, hạnh phúc là chuyện thường thấy ở cả miền xuôi lẫn miền ngược.

Truyện Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện giải quyết được khá sớm vấn đề số phận của con người trong xã hội thực dân, phong kiến.

Thành công cơ bản của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều thể hiện một cách sống động vả chân thực những nét riêng, nét lạ trong tính cách của người Mông nói riêng và đồng bào miền núi nói chung. Trên hết là một lối sống mộc mạc, hồn nhiên, phóng khoáng, tự do. Những phẩm chất này khiến người Mông có một sinh lực sống dồi dào khiến họ đủ sức mạnh để vượt qua bất cứ sự áp bức đè nén nào. Mị bề ngoài lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng bên trong sôi nổi một khát vọng sống, khát vọng tự do và hạnh phúc. A Phủ táo bạo, gan góc mà chất phác, tự tin. cả hai cùng là nạn nhân của bọn chúa đất, quan lại thống trị miền núi tàn bạo, độc ác. Trong con người họ tiềm ẩn sự phản kháng vô cùng mãnh liệt.

Bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo của Tô Hoài thể hiện rõ nhất qua việc thể hiện những diễn biến nội tâm tinh tế và phức tạp của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ.

Tô Hoài vốn là nhà văn có biệt tài miêu tả thiên nhiên và những phong tục, tập quán xã hội. Khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng cùng con người Tây Bắc với tính cách độc đáo… đã được tác giả khắc họa bằng ngòi bút tài hoa, mang phong vị đặc trưng của vùng núi rừng Tây Bắc.

Nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài uyển chuyển, linh hoạt, vừa tiếp thu truyền thống vừa sáng tạo. Nhà văn chủ yếu vẫn kể chuyện theo trình tự thời gian, tạo nên một dòng chảy liên tục nhưng nhiều lúc đan xen quá khứ với hiện tại một cách tự nhiên, hợp lí để làm nổi bật điểu cần thể hiện.

Qua việc miêu tả số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã làm sống lại trước mắt người đọc cả quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn quan lại, chúa đất phong kiến. Quá trình giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với Đảng, với cách mạng của đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi. Qua các hình tượng văn học trong tác phẩm, tác giả gián tiếp khẳng định chỉ có cách mạng mới giải phóng con người ra khỏi ách thống trị đầy áp bức bất công, giúp con người vươn tới cuộc sống tự do, hạnh phúc. Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của tác phẩm. Giá trị này giúp truyện đứng vững trước thử thách của thời gian và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích.

1. Cuối năm 1952, nhà văn Tô Hoài đi với bộ đội trong chiến dịch Tây Bắc. Sau khi tìm hiểu chung, Tô Hoài quyết định đi sâu vào những khu du kích của đồng bào các dân tộc thiểu số trên vùng núi cao. Chuyến đi kéo dài tám tháng đã để lại những ấn tượng sâu sắc và tình cảm tốt đẹp cho nhà văn. Tô Hoài kể lại: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi tại dốc núi làng Tà Xùa rồi cùng vẫy tay gọi theo: “Chéo lù! Chéo lù” (Trở lại! Trở lại!).

Không bao giờ tôi quên được lúc vợ chồng Lý Nủ Chu tiễn chúng tôi dưới chân núi Cao Phạ cũng vẫy tay kêu: “Chéo lù! Chéo lù!”. Hai tiếng: Trở lại! Trở lại! chẳng những nhắc tôi có ngày trở lại, phải đem trở lại cho những người thương ấy của tôi một kỉ niệm tấm lòng mình, một cái gì làm hiển hiện lại cả cuộc đời người Mèo (Mông) trung thực, chí tình, dù gian nan thế nào bao giờ cũng đợi cán bộ, đợi bộ đội, bao giờ cũng mong anh em trở lại […]. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi […]. Ý thiết tha với đề tài này là một quyết định. Vì thế tôi viết Truyện Tây Bắc”.

Truyện Tây Bắc gồm ba truyện (Cứu đất cứu mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ) viết năm 1953, ngay sau chuyến thâm nhập thực tế Tây Bắc của tác giả. Tập truyện này được tặng Giải Nhất, Giải thưởng Hội Văn nghê Việt Nam năm 1954-1955.

Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập Truyện Tây Bấc, cũng là một trong những truyện ngắn hay nhất của văn xuôi Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và số phận đau khổ của người nông dân nghèo miền núi dưới ách áp bức của các thế lực phong kiến và thực dân, đồng thời là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do của con người miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và cuộc đổi đời của họ khi đến với cách mạng.

Dưới đây chỉ phân tích nửa đầu của truyện: quãng đời ở Hồng Ngài của Mị và A Phủ, đây cũng là phần thành công hơn của tác phẩm. Trong phần này, tác giả tập trung giới thiệu và miêu tả về cuộc sống và số phận của hai nhân vật chính: Mị và A Phủ, thể hiện sức sống tiềm tàng và sự gặp gỡ của hai con người cùng một cảnh ngộ nô lệ ấy.

2. Mị và cuộc đời làm dâu trừ nợ trong nhà thống lí Pá Tra

Mị xuất hiện ngay trong mấy dòng đầu của truyện. Tô Hoài sử dụng thủ pháp miêu tả phác hoạ ngoại hình để gợi mở nội tâm nhân vật và đặt nhân vật trong sự đối lập với khung cảnh xung quanh: giữa cảnh giàu có, tấp nập của nhà thống lí Pá Tra “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” thì Mị luôn được đặt ở vị trí cạnh tảng đá và bên tàu ngựa. Mị như gắn vào với những cảnh vật ấy, tạo nên một cảnh sống riêng, im lìm, tăm tối, cực nhọc của kiếp sống đoạ đày, nó phơi bày ra bên cạnh cái giàu sang, tấp nập của nhà thống lí, nhưng chính nó là một phần trong bức tranh trọn vẹn của nhà thống lí. Chân dung nhân vật được khắc họa bằng một nét đậm: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

Sau khi đã giới thiệu nhân vật bằng một vài nét phác hoạ chân dung gây chú ý cho người đọc, tác giả mới kể lại câu chuyện Mị về làm dâu gạt nợ cho nhà Pá Tra.

Mị là cô gái trẻ, đẹp và giàu lòng yêu đời, lại chăm chỉ và hiếu thảo. Mị đang sống những ngày tươi đẹp của tuổi yêu đương, dù trong cảnh nghèo khó. Không ít chàng trai đã theo đuổi cô gái nghèo ấy. Mùa xuân đến, Mị đang sống trong niềm sung sướng hồi hộp chờ nghe tiếng sáo quen thuộc của người yêu. Thế nhưng chính trong một đêm xuân như thế, Mị đã bị bắt cóc về làm dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Nguyên do chỉ vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ Mị. Ngày trước hai người lấy nhau, không có tiền cưới, phải đến vay tiền thống lí, bố của Pá Tra. Mị phải mang món nợ truyền kiếp ấy như một thứ “tội tổ tông” của người nghèo, từ lúc ra đời! Tô Hoài đã tố cáo một hình thức bóc lột phổ biến của bọn phong kiến ở miền núi cũng như ở miền xuôi: nạn cho vay nặng lãi. Nó đã cột chặt bao nhiêu người nghèo vào số phận nô lệ, phụ thuộc vào bọn chủ nợ giàu có.

Trong thời gian đầu bị bắt vé làm vợ A Sử, Mị đã phản kháng quyết liệt: hàng mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, rồi Mị định tự tử bằng lá ngón. Nhưng có chết thì món nợ vẫn còn. Bố già còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Thế là Mị không đành lòng chết.

Những năm tháng làm dâu trong nhà Pá Tra là một chuỗi dài triền miên những cực nhọc vất vả nối tiếp không dứt đến mức dường như đã làm tê liệt cả ý thức về bản thân và những mong muốn thay đổi số phận ở Mị. “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Củng cố thêm cái ách áp bức nặng nề ấy còn là sự áp chế về tinh thần bởi mê tín, thần quyền. Mị bị ràng buộc bởi ý nghĩ rằng bố con Pá Tra đã “trình ma” mình là người nhà nó thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác trong nhà nó mà thôi. Chân dung Mị được khắc đậm một nét này: “cúi mặt không nghĩ ngợi nữa”, “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào “cũng cúi mặt buồn rười rượi”. Căn buồng Mị nằm lúc nào cũng âm u, chạng vạng với cái cửa sổ “một lỗ vuông bằng bàn tay”, là một biểu tượng gắn với cuộc đời nhân vật. Cái cửa sổ “Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Thậm chí Mị cũng không có ý nghĩ vẻ cái chết nữa: “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Mị sống như một cái bóng vật vờ, sống mà như đã chết, không còn cả ý thức về thời gian nữa. Mị không còn nhớ mình về làm dâu nhà Pá Tra đã bao nhiêu năm. Với Mị, sự chuyển đổi của thời gian, trong một ngày hay trong một năm, cũng chẳng gợi cho cô một ấn tượng, cảm xúc gì, vẫn chỉ là một cái màu nhờ nhờ trăng trắng “không biết là sương hay là nắng”, cái sắc màu mờ mờ đùng đục của những hoàng hôn đằng đẵng buồn tẻ và tê tái.

Ở đoạn đầu của truyện, cuộc sống của Mị bị giam hãm trong cái không gian chật hẹp và tù đọng của nhà Pá Tra, với một nhịp điệu buồn tẻ, nặng nề của những công việc khổ sai lặp di lặp lại, trong một thời gian ngưng đọng như không dĩ vãng và không tương lai. Lời trần thuật với nhịp chậm, trầm lặng tạo ra giọng điệu có chiều sâu thấm đượm nỗi xót xa và thương cảm.

3. Sự trỗi dậy mãnh liệt của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc ở Mị

Phải chăng tâm hồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh? Cô Mị một thời trẻ đẹp, khát khao hạnh phúc đã hoàn toàn cam chịu thân phận nô lệ, sống mà như đã chết. Không, ngòi bút của Tô Hoài không chỉ phơi bày cái đen tối, ảm đạm của cuộc đời mà còn thiết tha hướng tới phía sự sống và ánh sáng. Ngòi bút của nhà văn đã tìm sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sâu tiềm thức nhân vật để khơi bừng lên chút ánh sáng và hơi ấm của niềm ham sống khát khao hạnh phúc.

Sự thức tỉnh đời sống ý thức của Mị trước hết là nhờ tác động của hoàn cảnh, một hoàn cảnh khá “điển hình” – đấy là mùa xuân về trên miền núi cao Tây Bắc. Mùa xuân gợi dậy ở con người, ở thiên nhiên sức sống tiềm tàng và những khát vọng. Người Mông ăn Tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có thêm niềm vui thu hoạch mùa màng. Cái Tết năm ấy đến vào lúc gió và rét dữ dội, nhưng vẫn không ngăn được những sắc màu của mùa xuân trong thiên nhiên và cả ở con người. Sự sống của tạo vật và con người như được mùa xuân khơi dậy, làm bừng tỉnh. Và thời điểm để ngọn lửa sống trong lòng Mị bừng lên đã đến. Đấy là một “đêm tình mùa xuân”. Tiếng sáo gọi bạn tình cứ thiết tha, bồi hồi “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Với Mị, tiếng sáo gọi bạn là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của khát vọng hạnh phúc: “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị” hết núi này sang núi khác. Cái nồng nàn của đêm xuân lại được tăng thêm bởi bữa rượu ngày Tết, trong tiếng chiêng đánh ầm ĩ và những người lên đồng, người hát: “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say…”. Chính trong một trạng thái đã được kích thích bởi men rượu, bởi những âm thanh náo động của bữa cơm cúng ma trong nhà Pá Tra và sự lôi cuốn của tiếng sáo gọi bạn ngoài đường, Mị đã vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh lâu nay của mình. Dấu hiệu đầu tiên là Mị sống lại với những hồi tướng về những ngày xuân quá khứ, những kỉ niệm đẹp về ngày trước, những ngày hạnh phúc ngắn ngủi của tuổi trẻ. Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống “phi thời gian”, sống mà như đã chết bấy lâu nay, rồi Mị sống lại với niềm ham sống của tuổi trẻ: “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén, tưởng đã tắt lịm, thì nay bỗng bật trào dậy. Phản ứng đầu tiên đến với Mị là ý nghĩ: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Ý nghĩ về cái chết lúc này là sự phản kháng với hoàn cảnh, nó chứng tỏ rằng Mị đã ý thức lại được tình cảnh đau xót dai dẳng của mình. Trong khi ấy thì tiếng sáo – biểu tượng của khát vọng tình yêu và tự do – cứ theo sát diễn biến tâm trạng của Mị. Nó là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị. Tiếng sáo từ chỗ là một hiện tượng ngoại cánh (“tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”) đã xâm nhập thế giới nội tâm của Mị, trở thành một hiện hữu ở trong tâm linh nhân vật: “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”.

Đến đây đã xảy ra bước phát triển quyết định: từ những sôi sục trong tâm tư, Mị bước tới hành động. Đầu tiên là một hành động có nhiều ý nghĩa: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Đấy là một hành động của sự thức tỉnh. Mị thắp sáng ngọn đèn trong càn phòng vốn âm u, mờ mịt của mình, cũng tức là Mị thắp lên một ánh sáng trong cuộc đời tăm tối triền miên của mình trong nhà Pá Tra. Và hành động này thúc đẩy hành động tiếp theo, như những đợt sóng tiếp nhau. Dường như không đếm xỉa gì đến những trói buộc khắt khe của nhà Pá Tra, đến A Sử, Mị tự mình hành động như một con người tự do, theo tiếng gọi của lòng mình: quấn lại tóc, rút lấy cái váy hoa, sửa soạn đi chơi Tết.

Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mạnh mẽ thì nó bị dập xuống phũ phàng: A Sử bước vào, thản nhiên, lầm lì, trói đứng Mị vào cây cột nhà: tóc Mị xoã xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, rồi y “tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại”. Cái kĩ càng, rành rẽ của từng động tác biểu hiện một sự tàn ác đến thản nhiên của A Sử.

Suốt cái đêm bị trói vào cột ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé giữa niềm khao khát sống tự do và thực tại nghiệt ngã. Ban đầu, Mị như quên những vòng dây trói và những đau đớn thể xác mà vẫn sống với tiếng sáo, “tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi” ở ngoài kia, đến nỗi Mị “vùng bước đi”. Nhưng rồi những vòng dây trói thít chặt và nỗi đau đớn đến tê dại toàn thân đã kéo Mị trở về với thực tại. Thay thế cho tiếng sáo gọi bạn, chỉ còn “tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Thực tại phũ phàng đã bóp chết những khao khát tự do và hạnh phúc ở Mị.

Ngòi bút của Tô Hoài đã thấm nhuần tinh thần nhân đạo, thể hiện ở niềm tin và sự trân trọng niềm khát khao vươn lên đời sống tự do và hạnh phúc của những con người bị đoạ đày đau khổ. Đấy là sự tiếp nối tinh thần nhân đạo truyền thống trong văn học dân tộc.

Đến đây, giữa lúc xung đột đã dẫn đến căng thẳng, tác giả tạm thời mở nút cho tình tiết này bằng sự xuất hiện của A Phủ trong cuộc đánh nhau của toán thanh niên làng bên với A Sử. Đây cũng là lối giới thiêu nhân vật một cách tự nhiên và gây sự chú ý ngay từ đầu.

4. A Phủ, người ở trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra

Cũng như Mị, A Phủ được tác giả giới thiêu bằng sự xuất hiện đột ngột, gây chú ý cho người đọc, rồi mới kể về lai lịch của anh. A Phủ xuất hiên trong cuộc đánh nhau của trai làng bên với bọn A Sử.

Lũ phá đám ta đêm qua đây rồi.

– A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi!

Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gổ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. A Phủ xuất hiện đối đầu với A Sử thật hiên ngang và trận đòn đánh mới áp đảo và hả hê làm sao! (Chú ý câu văn mô tả cảnh này bằng một loạt từ chỉ hành động với nhịp nhanh, mạnh, dồn dập: chạy vụt ra, vung tay ném, xộc tới nắm, kéo đập đầu, xé, đánh tới tấp).

A Phủ là một thanh niên nghèo, suốt đời đi làm thuê làm mướn, không có ruộng, không có cả đến cái vòng bạc đeo cổ để đi chơi Tết. Cha mẹ đã chết cả trong một trận dịch đậu mùa, A Phủ đã từng bị bắt bán xuống vùng người Thái,… Nhưng chính cuộc sống cùng cực ấy đã hun đúc thêm ở A Phủ một sức sống mạnh mẽ, lòng ham chuông tự do và một tính cách thật gan góc, cùng với một tài năng lao động đáng quý. A Phủ thạo và ham thích những công việc lao động nặng nhọc mà khó khăn, nguy hiểm: “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”, “Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. A Phủ là đứa con của núi rừng tự do. Cuộc sống phóng khoáng, ưa tự do, gần gũi thiên nhiên và chất phác của A Phủ cũng là một nét tính cách đặc trưng của người Mông.

Việc A Phủ bị bắt làm người ở gạt nợ càng làm tăng thêm sức tố cáo của tác phẩm: một chàng trai khoẻ mạnh, gan góc, vốn không nợ nần gì nhà Pá Tra, lại lao động giỏi, sống tự do như chim trời giữa núi rừng, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của chúa đất, phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời trong nhà Pá Tra. Hơn thế nữa, cho đến cả đời con, đời cháu cũng vậy, bao giờ trả hết nợ mới thôi !

Cảnh bọn chức việc trong làng xử kiện A Phủ lại thêm một bức tranh cụ thể sống động, giàu sức tố cáo vé một tập tục là hiện thân của ách áp chế kiểu trung cổ ở miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt “tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp” và “Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút”, cứ thế suốt từ trưa cho đến hết đêm. Còn A Phủ gan góc, quỳ chịu đòn chỉ im như tượng đá.

5. Sự gặp gỡ của hai người cùng cảnh ngộ nô lệ

Mị và A Phủ cùng cảnh nô lệ trong nhà Pá Tra, nhưng không phải họ đã gặp gỡ nhau ngay được. Nhưng rồi một cảnh ngộ xảy đến với A Phủ. A Phủ đi chăn bò để hổ bắt mất một con. Pá Tra trói đứng A Phủ vào cọc ở giữa nhà, một tình cành bị trói chờ chết như năm nào Mị đã phải chịu. Lúc đầu, nhìn A Phù bị trói, Mị vẫn chưa có một suy nghĩ gì. Nào phải đâu Mị là người nhẫn tâm, chỉ vì những hành động tội ác trong nhà Pá Tra là chuyện diễn ra hằng ngày và Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực mà thôi. Hơn nữa, Mị vẫn đang chìm trong trạng thái sống gần như vô cảm. Nhưng đến một đêm, khi Mị trở dậy thổi lửa sưởi, “Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mất lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Chính dòng nước mắt ấy của A Phủ, dòng nước mắt tuyệt vọng, đau đớn của người trai Mông gan góc, quả cảm đã đánh thức đời sống ý thức và tình cảm ở Mị. Mị bừng tinh, thoát khỏi tình trạng “vô cảm”, mà dấu hiệu đầu tiên của sự thức tính ấy cũng lại là sự hồi tưởng. Kí ức sống dậy, Mị nhớ lại những nỗi đau đớn khi bị trói đứng vào cột. “Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Mị nhớ đến một người đàn bà khác đã từng bị trói đến chết. Từ sự xót thương người đồng cảnh ngộ, ở Mị đã hình thành mối đồng cảm giai cấp tự nhiên. Ý nghĩ cứu A Phủ đã mạnh hơn cả nỗi lo sợ cho chính mình. Từ tình cảm và ý nghĩ ấy, ắt dẫn tới hành động quyết định của Mị: cắt dây trói cứu A Phủ. Cắt dây trói cứu A Phủ, Mị cũng đã tự cắt sợi dây trói buộc đời mình với nhà Pá Tra.

Để tự cứu mình, Mị đã chạy theo A Phủ thoát khỏi địa ngục nhà Pá Tra. Đến dây cái vòng trói buộc cuộc đời Mị và A Phủ đã được tháo gỡ nút thứ nhất. Mặc dù đây chỉ là những hành động đấu tranh tự phát, nhưng cũng chính là từ những khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ ấy mà họ sẽ nhanh chóng đến với cách mạng, để giải phóng triệt để cho số phận của mình và của những người nghèo khổ khác.

6. Mấy lời kết luận

Thành công của truyện Vợ chồng A Phủ trước hết là ở cốt truyện mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giác ngộ của người nông dân miền núi, cũng như của nhân dân lao động nói chung trong sự gặp gỡ cách mạng. Mô típ cốt truyện này rất tiêu biểu cho các tác phẩm văn xuôi trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, cũng như cả trong văn học từ năm 1945 đến 1975. Nhưng tác phẩm gây được ấn tượng sâu sắc là ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nhân vật vừa mang tính tiêu biểu cho tầng lớp, giai cấp vừa có được những nét cá tính khá rõ. A Phủ thì mạnh mẽ, gan góc mà bộc trực, cả tin, chất phác. Mị giàu sức sống nhưng trầm lắng hơn, có một đời sống nội tâm sôi nổi dưới vẻ ngoài lặng lẽ.

Ở truyện Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã có một bút pháp miêu tả tâm lí khá sắc sảo, tinh tế, nhất là ở phần đầu của truyện. Những đoạn miêu tả diễn biến trong tâm hồn Mị, sự thức tỉnh của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc của Mị, là những đoạn văn đặc sắc. Điều này càng có ý nghĩa nếu ta đặt trong tình hình chung của văn xuôi thời kháng chiến chống thực dân Pháp, khi mà nghệ thuật miêu tả tâm lí chưa phải đã được chú ý đúng mức.

Vợ chồng A Phủ còn lôi cuốn người đọc bởi chất thơ trong sáng vời vợi. Chất thơ ấy loát lên từ chủ đề của tác phẩm, từ tâm hồn đôn hậu, chất phác của nhân vật chính, thấm đượm trong những bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc và đường nét uyển chuyển, hài hoà, những cảnh sinh hoạt, phong tục giàu chất trữ tình của đồng bào miền núi,…

Với Vợ chồng A Phủ và tập Truyện Tây Bắc, có thể nói lần đầu tiên bức tranh về cuộc sống ở miền núi dược mô tả chân thực trong văn học Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám, không phải không có những tác phẩm về đề tài miền núi, nhưng chú yếu vẫn là những “truyện đường rừng” mà trong đó miền núi hiện ra như một thế giới bí hiểm, với những tập tục lạc hậu và lạ lùng, những câu chuyện rùng rợn gợi trí tò mò của khách miên xuôi.

Tô Hoài đã vượt qua những hạn chế trong các tác phẩm đầu của mình viết về miền núi: Núi Cứu quốc, Xuống làng. Nhà văn không còn dừng ở sự quan sát từ bên ngoài mà đã hoà nhập sâu sắc vào cảnh sống, vào số phận, cuộc đời các nhân vật của mình, tạo ra một cái nhìn và giọng điệu trần thuật gần gũi, thống nhất giữa người kể chuyện và nhân vật. Giá trị nhân đạo của tác phẩm càng giàu thêm bới ngòi bút của nhà văn đã đồng cảm, trân trọng và khơi dậy ở nhân vật cùa mình những phẩm chất đẹp đẽ, những giá trị chân chính, những khát vọng sống hạnh phúc và tự do. Đồng thời, tư tưởng nhân đạo cách mạng giúp cho nhà văn hướng đến sự mô tả quá trình giải phóng của nhân dân lao động theo con đường cách mạng như một quy luật tất yếu. Các nhân vật anh Núp (Đất nước đứng lên), chị Tư Hậu (Một truyện chép ở bệnh viện), chị Sứ (Hòn Đất), chị út Tịch (Người mẹ cầm súng) sẽ là sự tiếp nối tự nhiên của Mị và A Phủ, trở thành những tính cách anh hùng.

Tô Hoài là một ngôi sao rất sáng trong nền văn học Việt Nam, ông sáng tác từ rất sớm và được dư luận chú ý ngay từ những tác phẩm đầu tay. Bằng sự hiểu biết sâu rộng nhiều lĩnh vựng và vốn sống phong phú về phong tục, tập quán của nhiều dân tộc ở nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước nên sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả những tình cảnh của đời thường. Tác phẩm của Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng giàu có lạ thường. Năm 1996, Tô Hoài được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc (1953), được tặng giải Nhất – giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Đây là tác phẩm mang lại nhiều thành công cho nhà văn Tô Hoài, để lại nhiều ấn tượng rất lớn trong lòng bạn đọc. Tác phẩm đặc biệt lôi cuốn, hấp dẫn nhờ lời văn giản dị, mộc mạc, am hiểu văn hóa dân tộc, và điểm cốt lõi là nêu bật được giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua đó cũng nói lên quá trình đến với cách mạng, con đường mở ra tự do hạnh phúc của những số phận đau khổ.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ kể về hai cuộc đời, hai số phận đó là Mị và A Phủ. Mị một cô gái xinh đẹp bị bắt về làm con dâu trừ nợ nhà thống lí Pá tra, cuộc đời cô tăm tối và đau khổ từ đó. A Phủ vì dám đánh con quan A Sử khi A Sử phá cuộc chơi của đám trai làng trong ngày hội mùa xuân, từ đó A Phủ bị phạt vạ và phải làm đầy tớ không công nhà thống lí. Hai cuộc đời đau khổ gặp nhau, trong đêm mùa đông lạnh giá Mị đã cắt dây cứu A Phủ bỏ trốn, tìm đến Phiềng Sa, họ thành vợ chồng và tìm đến với cách mạng. Câu truyện hiện lên với đầy chân thực, mộc mạc nhưng cũng lồng ghép vào đó là tinh thân nhân đạo sâu sắc của tác giả gửi gắm.

Ngay đầu tác phẩm nhà văn Tô Hoài đã đưa một hình ảnh giản dị, chân thân nhưng lại có sức ám ảnh rất lớn đối với bạn đọc. Hình ảnh “ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tầng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa”. Hình ảnh cô gái ấy là Mị, một cô gái hiền hậu, xinh đẹp, là vợ A Sử con trai Thống lí Pá Tra. Cuộc đời Mị trải qua rất nhiều đau khổ khi phải sống tại ngôi nhà ấy, vô hồn trong bể khổ.

Cuộc đời Mị hiện lên dần dần qua những trang văn đầy hiện thực những cũng đầy xúc cảm bằng ngòi bút tài hoa của tác giả. Mị là một cô gái xinh đẹp, khỏe mạnh, nhưng vì nhà nghèo cô đã bị bắt về nhà thống lí Pá Tra làm vợ A Sử, nói đúng nghĩa cô phải làm con dâu gạt nợ. Lúc đầu, bằng con mắt ngây thơ, trong sáng, bằng sự nhiệt tình của tuổi trẻ Mị đã khuyên cha, “con biết cuốc nương, làm ngô, con sẽ cuốc tương, làm ngô trả nợ thay cha, cha đừng bán con cho nhà thống lí”. Tuy nhiên, cái xã hội ngày ấy, đồng bào dân tộc ta bị áp bức bởi bọn chúa đất ức hiếp người dân vô tội, và cho vay nặng lãi chính là thủ đoạn đầy thâm độc, ép con người ta tới bước đường cùng. “Ông lão nhớ câu nói của thống lí dạo trước; cho con gái về nhà thống lí thì trừ được nợ. Thế là cha mẹ ăn bạc nhà giàu kiếp trước, bây giờ người ta bắt con trừ nợ. Không làm thế nào khác được rồi”. Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí, thực sự khó thoát khỏi số kiếp đau khổ. Sự giằng buộc bởi sự thâm ác của chế độ cũ những thêm vào đó cũng có một phần của hủ tục, phong tục xưa cũ còn lưu lại, Mị còn bị buộc chặt hơn với cái số phận con dâu trừ nợ vì “đã trình ma” ở nhà thống lí sống làm người của nhà thống lí chết cũng làm ma nhà thống lí Pá Tra.

Cuộc sống ấy đã khiến cô nghĩ đến cái chết “Một hôm, Mị trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mị quì, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mị cũng khóc, đoán biết lòng con gái.

“Mày về chào lậy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn quan lại bắt trả nợ. Mày chết rồi, không lấy ai làm nương ngô, trả được nợ, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!”. Sự thật vẫn mãi là sự thật, đã xảy ra thực sự khó mà thay đổi, Mị đau khổ tìm đến cái chết, một sự giải thoát đầy tiêu cực, bế tắc. Thế nhưng cuộc đời khéo đùa giỡn, Mị không thể chết, Mị thương cha mà không thể chết. Cha cô đã già, cô chết đi ông cũng sẽ đau lòng gấp bội, nhưng chết đâu phải đã hết, nợ vẫn còn đó, sự ác nghiệt vẫn còn đó, cái chết ấy đâu thay đổi được gì. Mị vứt nắm là ngón xuống đất, cô chỉ biết khóc, giọt nước mắt trong tuyệt vọng. Những chuỗi ngày đau khổ sẽ mãi kéo dài từ đó.

Từ đó trở đi, cuộc sống của Mị đều như người không hồn, lầm lũi, vất vả, nói là con dâu nhà nhiều đất, nhiều thuốc phiện nhất vùng nhưng Mị phải lao động như người hầu, không có thời gian nghỉ ngơi. Năm nào cũng vậy, làm những công việc giống nhau, “tước đay, bẻ bắp”, cứ lặp đi, lặp lại tẻ nhạt, mệt mỏi. Cuộc sống của cô gái xinh đẹp ngày nào giờ chỉ một màu u ám. Căn phòng của Mị không có đủ ánh sáng, nhìn ra cái ô cửa nhỏ “chỉ một màu mờ mờ trắng trắng không rõ”, đầy tù túng, vây hãm. Mị còn tự nhủ cuộc sống của mình còn không bằng con trâu, không bằng con ngựa.

Cuộc sống cứ trôi đi, trôi đi, các xác không hồn ấy phải trải qua những nỗi đau khó tả, nỗi đau thể xác khi phải làm việc như trâu ngựa, nhưng nỗi đau ấy đâu thể bằng nỗi đau trong tim, nỗi đau của người con gái mất đi hạnh phúc, mất đi hi vọng “Ở lâu trong cái khổ Mị đã quen khổ rồi”. Rồi đêm tình mùa xuân lại đến, mùa xuân, mùa của yêu thương, mùa của muôn hoa khoe sắc, trai gái hẹn hò. Tiếng sáo lay động lòng người.

Mày có con trai con gái

Mày đi nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”

Tiếng sáo gọi bạn tha thiết, khiến Mị nghĩ đến những ngày tháng đã qua, Mị thổi sao rất hay, thổi lá cũng hay như thổi sao, rồi chợt bừng lên bao suy nghĩ “Mị còn trẻ, Mị vẫn muốn đi chơi”. Đâu phải rằng ở lâu trong cái khổ mà còn người mãi phải tăm tối. Mị cũng đã bùng lên một tia sáng nhỏ trong lòng, Mị như phơi phới trở lại, diễn biến tâm trang nhân vật có sự thay đổi. Nhà văn Tô Hoài đã rất khéo léo đưa những chi tiết tả thực, nhẹ nhàng nhưng sống động để diễn tả tâm lý nhân vất. “Mị đứng dậy sắn ít mỡ bỏ vào ống dầu cho sáng,…rồi lấy cái váy hoa…”. Trong một phút suy nghĩ cô đã muốn vượt khỏi cái địa ngục, vượt ra ngoài căn phòng tối tăm để đến với cuộc sống ngoài kia. Không khí nhộn nhịp, đêm tình đầy mong ước đáng ra Mị phải được hưởng, đã rất lâu, rất lâu Mị không được sống lại cảm giác ấy. Quả thức, ngòi bút của nhà văn đã luồn lách rất sâu vào tâm lý nhân vật của mình mới có thể lột tả cho bạn đọc thấy rõ được một tâm hồn đang trỗi dậy.

Trong lúc Mị muốn được giải thoát, chỉ là một đêm thôi, một đêm như bao người khác “người ta cũng có vợ có chồng, người ta cũng được đi chơi, đăng này Mị và A Sử không có lòng với nhau mà vẫn phải sống với nhau”. Một suy nghĩ đầy sự phản kháng đã hiện lên, tuy nhiên trong lúc ấy Mị đã bị A Sử chặn lại. Bằng bản tính thâm độc của con quan chúa đất, hắn trói Mị vào cột, thậm chí còn cuốn tóc mị một cách dã man khiến Mị không sao cử động được. Suy nghĩ đã bị vùi tắt, nước mắt chảy xuống trong đau đớn cả về thể xác lẫn tâm hồn, phải nói gì đây khi cuộc sống là vậy, khi bọn tàn ác vẫn còn thì bao số phận, bao con người vẫn bị vùi lấp vào đau khổ. Mị chỉ còn nghe thấy tiếng ngựa đạp vách, ánh sáng đèn dầu bị A Sử dập tắt, còn lại chỉ một khe hở le lói yếu ớt. Hiện thực hiện lên dầy trần trụi, tố cáo sự tàn ác của bọn thống trị thời đó nhưng cũng đầy thương cảm đối với nhân vật Mị.

Cũng trong đêm tình mùa xuân ấy, nhân vật A Phủ xuất hiện. Một anh chàng khỏe mạnh, dũng mãnh đã dám đánh A Sử khi hắn phá vỡ cuộc vui của đám trai làng tìm bạn. Vì đánh A Sử nên số phận của A Phủ cũng bị rơi vào nhà thống lí Pá Tra, cái địa ngục trần gian đã đẩy con người ta đến cái bế tắc cùng cực dường như chỉ nghĩ đến cái chết mới có thể giải thoát. Sau đêm đánh A Sử trọng thương, A Phủ bị người nhà thống lí phạt rất nặng bị đánh bầm dập nhưng anh không kêu lên một tiếng, thể hiện một con người gan dạ, cứng cỏi vô cùng. A Phủ bị phạt vạ một trăm quan tiền, một trăm quan tiền chẵn. Vậy như là mòn nợ truyền kiếp này đến bao giờ mới hết “đời mày không trả được thì đời con mày…đời cháu mày phải trả…”. Vậy là A Phủ phải ở đợ, làm thuê không công cho nhà thống lí, nào là những công việc vất vả đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò rừng. Thực sự không còn có cái gọi là công bằng, công lý ở cái xã hội ấy mà chỉ còn áp bức bóc lột. Cuộc sống của nhân dân trước cách mạng khổ đau đã hiện lên rất rõ qua hai nhân vật Mị và A Phủ.

Và một lần để lỡ hổ ăn thịt mất bò nhà thống lí, A Phủ lại bị phạt nặng, anh bị người nhà thống lí trói vào chặt vào cột bằng sợi mây siết chặt. Trong đêm mùa đông giá rét A Phủ bị đánh đập dã man, bị bỏ đói mấy ngày liến, thực sự không còn tính người, không còn coi tính mạng con người bằng súc vật nữa. Đêm mùa đông ấy, nếu như không có sự giải thoát thì A Phủ sẽ chết, chắc chắn là phải chết.

Mùa đông giá rét ở Hồng Ngài thật khiến con người ta sợ hãi, hai số phận gặp nhau Mị và A Phủ. Hai con người bị giam chặt, kìm hãm, bị áp đặt cuộc sống, mọi thứ của cuộc đời dần như vô nghĩa. Khi Mị bắt gặp anh mắt của A Phủ, khi Mị nhìn ánh lửa và nghĩ đến cuộc sống của bản thân mình, một ánh sáng trong tâm trí như đã hiện lên. Tâm trạng nhân vật Mi như có một chuyển biết đầy rõ nét hơn nữa, Mị đã quyết định cắt dây cứu A Phủ. Đây là kết quả tất yếu của một quá trình bị dồn nén, áp bức về tinh thần, đọa đày về thể xác, bây giờ đã đến lúc phải chấm dứt. Mị cắt dây trói cứu A Phủ đổng thời cũng là tự cắt đứt sợi dây vô hình đã trói chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Hành động nhanh nhẹn, dứt khoát cứu một con người như mang lại chính sự sống cho Mị và rồi Mị và A Phủ đã cùng nhau trốn đi. Họ đã chốn đến Phiềng Sa sống một cuộc đời mới, mở ra hạnh phúc mới và tìm đến được với ánh sáng cách mạng.

Trong giá trị hiện thực của tác phẩm đã ẩn chứa giá trị nhân đạo sâu xa. Có căm thù giai cấp thống trị và xã hội bất công, tác giả mới lên tiếng tố cáo mạnh mẽ. Có thực sự cảm thương số phận đau khổ của con người, tác giả mới viết nên những trang văn gây xúc động mạnh mẽ như vậy.

Tính nhân đạo của tác phẩm trước hết thể hiện ở sự bênh vực và cảm thông sâu sắc với số phận của những con người bất hạnh như Mị và A Phủ. Ở khía cạnh này, Tô Hoài tỏ ra có sự am hiểu sâu sắc từ đời sống vật chất đến đời sống tâm lí của đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc.

Thành công cơ bản của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều thể hiện một cách sống động vả chân thực những nét riêng, nét lạ trong tính cách của người Mông nói riêng và đồng bào miền núi nói chung. Trên hết là một lối sống mộc mạc, hồn nhiên, phóng khoáng, tự do. Những phẩm chất này khiến người Mông có một sinh lực sống dồi dào khiến họ đủ sức mạnh để vượt qua bất cứ sự áp bức đè nén nào. Mị bề ngoài lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng bên trong sôi nổi một khát vọng sống, khát vọng tự do và hạnh phúc. A Phủ táo bạo, gan góc mà chất phác, tự tin. cả hai cùng là nạn nhân của bọn chúa đất, quan lại thống trị miền núi tàn bạo, độc ác. Trong con người họ tiềm ẩn sự phản kháng vô cùng mãnh liệt.

Ngòi bút diễn tả tâm lý nhân vật của nhà văn Tô Hoài chính là một độc đáo của tác phẩm, nhất là diễn tả tâm lý nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân để lại nhiều ám ảnh đối với bạn đọc. Sự thay đổi trong tâm lý nhân vật được diễn tả rõ nét cho thấy nhà văn là một người rất tinh tế, tài hoa, biết nhiều, hiểu nhiều và đầy cảm thông đối với cuộc sống của những người dân khổ cực.

Qua tác phẩm Vợ chồng A Phủ cho ta thấy cuộc sống đầy khổ cực của nhân dân ta trước cách mạng, tố cáo mạnh mẽ xã hội thời bấy giờ sự lộng quyền của bọn nhà giàu chúa đất ép con người ta đến bước đường cùng. Tác phẩm cũng đề cao giá trị con người, giá trị của sự đổi thay vùng lên phản kháng, người dân đã đến với cách mạng, tìm đến với tự do, hạnh phúc. Những trang văn cũng chính là tiếng nói làm nổi bật lên nét tài hoa của nhà văn Tô Hoài để tên tuổi ấy mãi đi vào lòng bạn đọc.

Nếu như tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài mang một giọng hồn nhiên trong sáng thì tác phẩm Vợ chồng A Phủ của ông mang lại màu sắc dân tộc đậm đà, chất thơ chất trữ tình thấm đượm. Qua tác phẩm, nhà văn đã dựng nên một bức tranh hiện thực của hai cuộc đời: Mị và A Phủ, những bức tranh đó cũng chứa chan một tấm lòng nhân đạo của Tô Hoài

Mị, một cô gái xinh đẹp trẻ trung, nhưng lại mang một kiếp sống nghèo của kẻ “thấp cổ bé họng”. Cha mẹ cô không thể trả nổi món nợ nhà thống lí thế là món nợ ấy truyền sang Mị. Tên thống lí tàn bạo ấy lại muốn bắt Mị làm “con dâu gạt nợ”. Mà quan đã muốn là trời muốn, cô Mị về làm dâu nhà quan mà trong lòng mang một mối uất ức không thể giãi bày. Tiếng làm dâu nhưng lại là một thứ nô lệ không hơn không kém, cô mất tất cả quyền sống, quyền được xem là một con người. Ngày trước dẫu nghèo nhưng được tự do, yêu đời, giờ đây vẫn nghèo vẫn cực nhọc lại nhục nhã chịu kiếp sống nô lệ. Qua kiếp sống của Mị, nhà văn bộc lộ một tấm lòng thương người, chua xót cho số phận con người, và cũng qua đó Tô Hoài đã vạch trần cái bản chất bóc lột của giai cấp thống trị. Người ta dùng cái thế lực và tiền bạc “cướp người đàn bà đem về trình ma”, thế là người đàn bà cũng bị cái “ma” vô hình trói cả cuộc đời trong nhà ấy, “ chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi

Mị đã khổ nhiều rồi, trong cái địa ngục trần gian ấy, lại càng khổ hơn khi phải chấp nhận mình là kiếp trâu kiếp ngựa. Cả những con người cứng rắn, có lẽ không khỏi động lòng khi đọc đến câu “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”… Khổ mà đến “quen” rồi quả thật ý thức con người đã bị tê liệt, đã mất đi cái “yếu tố xã hội” để được xem là con người. Chuỗi ngày cực nhục đã cướp đi của Mị sức sống tài năng, cướp đi những thất vọng tuổi trẻ những “lúc hồi hộp chờ đợi người yêu”. Lúc nào và bao giờ cũng thế, công việc cứ nối tiếp nhau vẽ ra trước mặt Mị, cứ những công việc quen thuộc làm đi làm lại “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế”. Khổ quá, cái khổ cứ chực bóp nát cuộc đời Mị, thế sao Mị không tự tử chết đi cho rồi? Không được bởi “Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Mị đành trở lại nhà thống lí”.

Cuộc sống trong cái địa ngục khủng khiếp đã bào mòn đi trái tim yêu đời của Mị, giờ đây nó đã trở nên trơ lì, chai sạn. Mị chỉ còn biết vùi đầu vào công việc: “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa” “ càng ngày mị càng không nói, cứ lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”. Thế giới của Mị thu vào một “ cái buồng kín mít, chỉ có chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Ý thức đã hoàn toàn biến dạng, Mị nhìn ra cuộc đời bằng ô cửa sổ, mà lại chẳng biết gì ngoài ấy thì có phải Mị đã quên mình là con người! Rõ ràng Tô Hoài đã tuân thủ nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực một cách nghiêm ngặt: hoàn cảnh đã tác động vào tính cách Mị. Vợ chồng A Phủ chính là một bản cáo trạng đanh thép kết án những bọn cường hào thống lí và Tô Hoài đã mở rộng tấm lòng mình để bao bọc, che chở, bênh vực cho những người phụ nữ miền núi chịu hai tầng bóc lột.

Bức tranh hiện thực được hoàn chỉnh hơn với sự xuất hiện của A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh cường tráng, trung thực. Chỉ vì những cuộc ẩu đả thường tình mà A Phủ bị đưa ra xử kiện thật là vô lí. Nhưng vấn đề ở chỗ: Người đúng là con dân còn kẻ sai là con quan, hơn nữa, quan lại là người xử kiện. Như thế chẳng biết “công lí” có còn ngự trị nơi quan đường? Chỉ biết rằng A Phủ đang là một con chim xõa cánh trong bầu trời tự do bỗng chốc bị nhốt trong lồng, bị trở thành nô lệ. Dường như cuộc đời A Phủ có lặp lại ít nhiều những biến thái của cuộc đời Mị. Đó là số phận chung cho những người miền núi thời bấy giờ.

Nhắc đến tác phẩm, người ta nhắc đến tính hiện thực và giá trị nhân đạo. Hiện thực mà chỉ bằng tố cáo phê phán thì còn khiếm khuyết, “nhân đạo” mà chỉ có yêu và ghét thì chưa phải là nhân đạo. Nhà văn cần phải hiểu nhân vật và tìm ra con đường tất yếu mà nhân vật phải đi. Tính cách nhân vật phát triển theo hoàn cảnh và được Tô Hoài phân tích theo con đường phát triển của tâm lí nhân vật. Thiết nghĩ đây mới là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo độc đáo của tác phẩm. Nhân cách Mị bị chon vùi trong cái địa ngục trần gian là hợp lí, sống cho ra người thì không sống được muốn chết cũng không chết được. Có phải Mị đã ở cái trạng thái “sống dở chết dở”. Rồi Mị phải quen, phải chịu đựng, và trở nên chai lì như một cỗ máy. Liệu Mị có còn lối thoát? Nếu như có một hoàn cảnh đã làm tê liệt ý thức con người thì sẽ có một hoàn cảnh để vực dậy trong lòng họ một sức sống. Nghe như mơ hồ nhưng đó là sự thực. Khi chứng kiến A Phủ bị trói, lúc đầu “Mị thản nhiên thổi lửa hơ tay… nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Nhưng “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ” chính là “hoàn cảnh” đã giúp Mị sống dậy. “Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lóe Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Mị bắt gặp dòng nước mắt ấy và nhớ về mình, Mị cũng phải trói đứng thế kia và Mị cũng khóc “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”. Dòng nước mắt là sự đồng cảm giữa hai con người. Dòng nước mắt của A Phủ đã làm bỏng rát vết thương trong lòng Mị. Tất cả thôi thúc Mị cởi trói cho A Phủ và cả hai người “lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi”. Họ đến lập nghiệp ở Phiềng Sa. Thế rồi chẳng bao lâu sau, cái đồn Tây, lại lù lù xuất hiện, cha con thống lí lại vào ở đó. Trước mắt hai người chỉ còn một sự lựa chọn: trở về kiếp sống nô lệ hoặc chống kẻ thù. Cách mạng rồi sẽ đến với họ và họ sẽ trở thành người của cách mạng.

Muốn phân biệt giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo là điều không phải dễ. Thực ra, cả hai hòa quyện vào nhau, đan xen vào nhau. Có ghét nhà văn mới tố cáo bọn thống lí Pá Tra, có thương cảm nhà văn mới viết được những câu văn đầy xúc động, có hiểu nhà văn mới đi sâu vào cuộc sống tâm lí con người. Và Tô Hoài có thông cảm với nhân vật lắm mới có thể xét đoán tinh tế cuộc sống tinh thần của Mị. Những ngày tháng đầu tiên ở nhà thống lí Mị cứ khóc có đến hàng mấy tháng, thế rồi định ăn lá ngón để tự tử vì không chịu nhục. Nhưng vẫn cố sống, sống một cách gượng gạo vì chữ hiếu. Mị nghèo vật chất nhưng không nghèo tình thương, lòng Mị vẫn âm ỉ một khao khát sống khao khát được tự do. Nếu như nhà văn lạnh lùng theo chủ nghĩa hiện thực khách quan thì làm sao nhà văn nắm bắt được cái khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng vẫn “tồn tại đời đời” ấy. Rõ ràng nhà văn Tô Hoài tuân theo chủ nghĩa hiện thực nhưng ông tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghiệt vẫn không thể vùi dập hoàn toàn nhân tính. Hoàn cảnh tác động tính cách nhưng không giết chết tính cách. Trải qua hơn nửa thế kỉ, tác phẩm vẫn còn còn nguyên giá trị hiện thực và nhân đạo cao cả của nó. Vì vậy truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mới mãi mãi đọng lại trong lòng người đọc.

Tô Hoài trước 1945 nổi tiếng với tiểu thuyết “Dế mèn phiêu lưu ký”. Đi theo Cách mạng rồi đi kháng chiến chống Pháp, Tô Hoài hoạt động ở vùng rừng núi Tây Bắc. Kết quả rực rỡ của chuyến đi thực tế dài ngày đó là tập “Truyện Tây Bắc” ra đời, được giải nhất giải thưởng Hội Văn Nghệ Việt Nam 1954-1955. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm hay nhất trong trong truyện “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài. Truyện đã diễn tả quá trình giác ngộ và vùng dậy chống phong kiến và đế quốc của các dân tộc Tây Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng. “Vợ chồng A phủ” cũng là kết quả của một quá trình chuyển biến đến độ chín muồi của tư tưởng và tình cảm nhà văn. Tình cảm của tác giả đã quyện lẫn với tình cảm của dân tộc anh em một cách chan hòa tự nhiên, đó là tấm lòng biết ơn, thủy chung, tình nghĩa đối với các vùng du kích đã tiếp tế che chở cho cán bộ, bộ đội hoạt động ở vùng địch hậu Tây Bắc”. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

1. Giá trị hiện thực

“Vợ chồng A phủ” tố cáo sâu sắc tội ác của bọn phong kiến miền núi Tây Bắc đối với các dân tộc vùng cao. Tác phẩm đã nói lên một cách đau xót nỗi thống khổ bao đời của các dân tộc anh em ở Tây Bắc dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và bè lũ tay sai là quan lang, quan châu, phìa (Thái), tạo (Mường), thống lí (H’Mông).

Dưới chế độ thống trị tàn bạo man rợ của bọn thống lí, quan bang, những người đi ở trừ nợ như A Phủ, làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí như Mị là những “kiếp trâu ngựa”, khốn khổ, nhục nhã ê chề. Thật ra những kiếp người như Mị, như A Phủ là những kẻ nô lệ ở vùng cao. Bọn thống lí là một thứ “vua” ở vùng cao, chúng có quyền sinh quyền sát đối với người dân Tây Bắc.

Chúng có quyền bắt bớ, đánh đập, bắt làm nô lệ, gả bán, thậm chí có thể giết người một cách dã man (trong truyện có nhắc đến một người vợ trong nhà thống lí bị trói đứng rồi chết và A Phủ thì suýt chết). Chỉ trong một truyện ngắn mà tác giả đã mô tả được bức tranh toàn cảnh về giai cấp thống trị Tây Bắc, giá trị hiện thực của tác phẩm thật là sâu sắc. Mị là một cô gái đẹp (tả gián tiếp ví như những đêm tình mùa xuân, con trai đến đứng nhẵn đầu buồng Mị…), tài hoa (biết thổi sáo, thổi lá cũng hay như thổi sáo) và giàu tình cảm. Sinh ra trong một gia đình nghèo, Mị bị A Sử, con trai thống lí cướp về làm vợ để trừ nợ. Mị là vợ của A Sử nhưng thực ra chỉ là một người đầy tớ, một nô lệ của gia đình thống lí. Mị lặng lẽ như một con rùa trong xó cửa, quanh năm chỉ biết vùi đầu vào những công việc lao động nặng nhọc “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt đời suốt năm như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào làm việc cả đêm, cả ngày.”.

Ngày tết, A Sử trói Mị trong buồng tối rồi rủ bạn đi chơi. Tô Hoài, qua nhân vật Mị còn phản ánh những tập tục man rợ của các dân tộc vùng cao. Người đàn bà khi bị cướp về trình ma thì vô hình người đàn bà (mà Mị là điển hình) đã trói cả đời mình vào nhà ấy. Nếu chẳng may chồng chết thì người ấy phải làm vợ người khác trong nhà, có khi là một người anh chồng già lụ khụ, có khi là một người em chồng còn ở tuổi trẻ con, và nếu chồng lại chết, lại vẫn phải ở với một người đàn ông khác vẫn trong nhà ấy… Phải suốt đời ở trong nhà ấy. Mị chết dần chết mòn ở trong nhà của thống lí. Ngoài những lúc còng lưng làm việc như con trâu, con ngựa thì Mị lại bị nhốt trong cái buồng kín mít chỉ được nhìn ra ngoài qua một cái “lỗ vuông bàng bàn tay, lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. A Phủ là chàng trai H’Mông nghèo khỏe mạnh, chạy nhanh như ngựa, săn bò tót rất giỏi. Con gái trong bản rất thích A Phủ, “đứa nào lấy được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà”. A Phủ cũng là một thanh niên yêu tự do. Ngày Tết, A Phủ rủ bạn đi chơi đánh pao, A Sử đến phá đám bị A Phủ đánh. Thống lí Pá tra bắt A Phủ đánh đập, hành hạ, phạt vạ một trăm đồng bạc trắng. A Phủ phải ở cho thống lí trừ nợ. Thế là trong nhà thống lí có thêm một con người bất hạnh nữa làm nô lệ. Mị thì làm tôi tớ trong nhà, còn A Phủ thì làm tôi tớ ngoài rừng. “Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. A Phủ một mình ngoài rừng, trên núi cao đốt nương chăn bò, săn bò tót… Chẳng may một lần động rừng, hổ xuống ăn mất một con bò. Thống lí đã bắt A Phủ trói đứng suốt ngày đêm ngoài trời. Đó thể nói cha con thống lí Pá Tra và bọn tay chân như lí dịch, quan lang, xéo phải… là những điển hình cho giai cấp thống trị tàn bạo, man rợ của vùng cao Tây Bắc.

Mị và A Phủ – Hai số phận bi thảm là hiện thân của thứ nô lệ của chế độ phong kiến man rợ ở Tây Bác. Nhưng Tô Hoài không dừng lại ở việc phản ánh bản chất tàn bạo, dã man của giai cấp thống trị Tây Bắc, nhà văn còn đi sâu vào bản chất của cuộc sống của dân tộc vùng cao, phản ánh sức sống mãnh liệt của các dân tộc Tây Bắc và sự vùng dậy chiến thắng của các dân tộc Tây Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng.

2. Giá trị nhân đạo

Giá trị của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” không chỉ nằm ở sự miêu tả cuộc sống chân thực và sinh động. Giá trị chủ yếu làm nên sức sống bền lâu của tác phẩm chính là ở tinh thần nhân đạo sâu sắc, thấm thía chất chứa sau mỗi trang viết giàu chất hiện thực của Tô Hoài. Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của tác phẩm văn học chân chính. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông, chia sẻ đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ. Chủ nghĩa nhân đạo mới không chỉ yêu thương, đồng cảm với những nỗi khổ của con người mà còn hướng tới nhằm giải phóng cho con người khỏi mọi xiềng xích, áp bức, khổ đau và tạo điều kiện cho họ trở thành những con người tự do, con người làm chủ, chiến đấu chống lại mọi thế lực bạo tàn để xây dựng cuộc sống hạnh phúc của mình.

Hiểu như vậy, chúng ta thấy tư tưởng nhân đạo của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” trước hết được toát lên từ niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận bất hạnh, bị mất quyền sống của người lao động miền núi, mà tiêu biểu là Mị và A Phủ. Mị vốn là một cô gái xinh đẹp mang trong mình biết bao phẩm chất đẹp. Thế mà…kể từ khi bước chân về làm con dâu trừ nợ, thực chất là nô lệ không công cho nhà thống lí, dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền và hủ tục phong kiến miền núi, Mị phải sống một chuỗi ngày đau thương, tủi nhục, tăm tối. Mị không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đày đoạ về tinh thần. Mị bị đối xử như con vật, thậm chí không bằng con vật: “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, tưởng mình là con ngựa, là con ngựa phải tới ở các tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi gì nữa… Con trâu, con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày” (VHTG – tr.91). Sự đau khổ tủi cực đã cướp đi mất tuổi xuân của Mị, biến cô trở thành một kẻ cam chịu. Cô gái Mèo trẻ đẹp, tài hoa, giàu lòng yêu đời thuở nào giờ gần như đã chết, chỉ còn người đàn bà thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Mị ngày càng không nói. Mị mất hết cảm giác thời gian: không dĩ vãng, không hiện tại, không tương lai. Cuộc đời Mị chỉ còn thu nhỏ lại qua cái “lỗ vuông” của chiếc cửa sổ “bằng bàn tay – trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Mị gần như tê liệt sức sống, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Bằng những chi tiết chân thực gợi cảm như thế, Tô Hoài đã làm cho bức tranh hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm càng thêm sinh động, vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu.

Sự xuất hiện của nhân vật chính – A Phủ – cũng bị bắt làm con ở trừ nợ đã làm hoàn chỉnh thêm bức tranh hiện thực, giá trị tố cáo và nội dung nhân đạo của tác phẩm. A Phủ là một chàng trai khoẻ mạnh, gan góc, yêu chính nghĩa, vốn không nợ nần gì nhà thống lí Pá Tra, lại lao động giỏi, sống phóng khoáng tự do như con chim trời giữa núi rừng Tây Bắc, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của bọn chúa đất phong kiến, phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời trong nhà thống lí Pá Tra. Chỉ vì dám đánh lại con quan là A Sử trong việc phá đám chơi ngày tết mà A Phủ bị bắt về làm đứa ở gạt nợ, làm con trâu, con ngựa cho nhà thống lí. Cũng như Mị, những ngày sống ở nhà Pá Tra, A Phủ phải chịu biết bao sự đoạ đày nhục hình cả thể xác lẫn tinh thần. A Phủ gần như tê liệt hết sức phản kháng. Anh đã từng phải ngồi im như tượng đá để chịu đòn và phải bất lực để cho những dòng nước mắt chảy dài trong những đêm bị trói đứng trong góc nhà, thần chết dường như đã vẽ những nét đen ngòm trên “hai hõm má xám đen lại” vì tuyệt vọng và đau khổ của A Phủ.

Nếu không có một sự đồng cảm lạ lùng giữa Tô Hoài và cuộc đời của những Mị, những A Phủ, những con người Tây Bắc yêu thương, nhà văn đã không thể nào xây dựng thành công số phận khổ đau của nhân vật đến như vậy. Đọc những trang sách của Tô Hoài viết về số phận bi thương của Mị và A Phủ, ta có cảm giác đó không còn là những dòng chữ lạnh lùng nữa mà là những dòng nước mắt chảy thẳng từ trái tim tràn đầy tình thương yêu nhân đạo của tác giả khóc thương cho thân phận xấu số của nhân vật.

Giá trị nhân đạo thấm thía trong “Vợ chồng A Phủ” còn toát lên từ sự tố cáo gay gắt thế lực thực dân phong kiến. Điển hình cho thế lực đói lập, chà đạp lên cuộc sống con người là cha con thống lí Pá Tra. chúng đã lợi dụng sức mạnh cường quyền, thần quyền, hủ tục để biến người lao động thành nô lệ không công và đối xử với họ lạnh lùng, tàn nhẫn như đối xử với con vật. Có biết bao nhiêu người phụ nữ, thanh niên như Mị và A Phủ đã bị biến thành công cụ lao động, sống đời sống con trâu, con ngựa trong nhà thống lí? Có biết bao nhiêu người đã bị trói đứng, thậm chí trói cho đến chết ở nhà Pá Tra? Chúng ta không thể biết con số cụ thể, nhưng qua số phận Mị và A Phủ, người đọc vẫn cảm nhận, căm ghét sự tàn bạo, vô lương tri cua bọn cường hào miền núi.

Bên cạnh thái độ cảm thông, chia sẻ và lên án, tố cáo, “Vợ chồng A Phủ” còn là một bài ca ca ngợi những nét phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặt niềm tin, sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng tốt đẹp của những con người bị đày đoạ, đau khổ. Đó là sự kế tục chủ nghĩa nhân đạo truyền thống, đồng thời phát triển lên một mức cao hơn, Người đọc không chỉ thương một cô Mị khốn khổ, bị đọa đày, mà còn yêu một cô Mị tài hoa, ham sống, giàu lòng hiếu thảo, đức hi sinh và tinh thần vật lộn, đấu tranh để vượt lên hoàn cảnh. “Điều kỳ lạ là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt” (Tô Hoài). Ách thống trị của cường quyền, thần quyền, hủ tục đã không giết hẳn hình ảnh người con gái tài hoa, yêu đời trong Mị. Dưới đống tro tàn của hiện tại, mầm sống, niềm khát khao hạnh phúc vẫn âm ỉ cháy trong Mị, chỉ chờ một sự tác động ngoại cảnh để bùng dậy, cháy sáng. Đêm tình mùa xuân và cảnh Mị cởi trói cho A Phủ là những trang văn hay nhất trong tác phẩm, đánh dấu sự bừng tỉnh của con người đấu tranh trong Mị. Bên cạnh Mị, hình ảnh A Phủ, chàng trai Mèo dũng cảm, gan góc, phóng khoáng của thiên nhiên Tây Bắc cũng là một nhân vật để lại nhiều ấn tượng với người đọc. Mị và A Phủ tiêu biểu cho tâm hồn, vẻ đẹp con người miền núi và thái độ trân trọng, ngợi ca của tác giả.

Giá trị nhân đạo trong “Vợ chồng A Phủ” còn mang nét mới, tiến bộ hơn chủ nghĩa nhân đạo truyền thống. Đó là nhà văn đã chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động là đi từ tự phát đến tự giác, từ tăm tối đau thương vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm nhờ sự dìu dắt của Đảng như một tất yếu lịch sử. Con đường đó được nhà văn miêu tả cụ thể qua quá trình đấu tranh của Mị và A Phủ từ lúc trốn khỏi Hồng Ngài đến lúc trở thành những người du kích Phiềng Sa. Từ những con người nô lệ u mê, câm lặng, họ đã tự phá bỏ sợi dây trói hữu hình thắt chặt cuộc đời họ trong nhà thống lí Pá Tra để đi theo tiếng gọi của tự do, để giác ngộ một chân lý: chỉ có cách cầm súng đánh lại bọn thống trị, họ mới có thể có được cuộc sống bình yên, hạnh phúc.

Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Sáng tạo của ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường. Theo ông:”viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không thể tầm thường cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc. Ông cũng có một vốn hiểu biết phong phú sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Chính vì như vậy, tác phẩm của ông luôn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “Truyện Tây Bắc” viết năm 1953 của nhà văn là kết quả của chuyến thâm nhập thực tế của ông đối với mảnh đất Tây Bắc. Tô Hoài đã có công khai khẩn cho một vùng đất bị văn học bỏ quên. Tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và số phận khổ đau của những người dân nghèo miền núi cao Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất, đồng thời, tác phẩm là bài ca về sức sống và vẻ đẹp của con người nơi đây mà tiêu biểu là nhân vật Mị.

Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu về Mị qua hai nghịch cảnh. Một bên là cô Mị ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Một bên là cảnh nhà thống lí giàu có, người ra vào tấp nập. Mị là một con người mà như lẫn vào các vật vô tri, nghĩa là con người mà không khác gì đồ vật, kiếp người mà không khác gì kiếp vật. Đây là thủ pháp tạo tình huống “Có vấn đề” trong lối kể chuyện truyền thống giúp người đọc tham gia vào hành trình tìm hiểu những bí ẩn về số phận nhân vật và những vẻ đẹp ẩn sâu trong những con người ấy mà ở đây chính là về Mị.

Trước hết, Mị là một cô gái có số phận khổ đau. Chỉ vì một món nợ truyền kiếp mà Mị phải vào làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, phải sống một kiếp người khổ đau. Về nhà thống lí, Mị bị chà đạp, vùi dập, cướp đoạt tất cả mọi quyền. Mị sống như kiếp vật. Bề ngoài là con dâu nhưng thực chất là con nợ. Nỗi khổ đau nhất ở Mị là con nợ thông thường dù khốn khổ đến mấy còn có hi vọng thoát khỏi thân phận con nợ sau khi đã trả hết nợ cho chủ, oái ăm thay, Mị là con nợ nhưng cũng là con dâu (Con dâu gạt nợ) đã bị “Cúng trình ma nhà nó rồi, chạy đâu cho thoát, chỉ còn cách chịu đựng đến tàn đời mà thôi”. Thực ra, Mị đã sớm linh cảm thấy cuộc đời đau khổ của mình nên ngay từ đầu Mị đã van xin cha “Đừng bán con cho nhà giàu”. Mị sẽ tự cuốc nương, trồng ngô để thay cha trả nợ. Thế nhưng nguyện vọng chính đáng ấy không thể chống lại âm mưu thâm độc của cha con nhà thống lí.

Những ngày tháng sống trong thân phận làm dâu gạt nợ là những chuối ngày dằng dặc đau thương của Mị, Mị sống trong tủi cực, đúng nghĩa với một nô lệ khổ sai. Mị bị biến thành một thứ công cụ lao động trong tay cha con thống lí. Suốt năm suốt tháng Mị cực nhục âm thầm trong công việc, “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, se đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời như thế” Những việc giống nhau, tiếp nhau sẽ vẽ ra trước mặt mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại.

Với thư pháp so sánh tương đồng, nhà văn đã làm nổi bật cuộc đời cơ cực của Mị, Mị nghĩ mình cũng là con trâu, con ngựa vì là con trâu, con ngựa thì phải đổi ở tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, là trâu ngựa thì chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Thậm chí “con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm còn được đúng gãi chân nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc cả đêm cả ngày” Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa đến nỗi ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi. Lời cắt nghĩa ấy của tác giả đã minh giải tình trạng Mị bị đày đọa đến mức tê liệt. Càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Cửa buồng Mị ở âm u lạnh lẽo, nó kín mít chỉ có một cái cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trắng trắng không biết là sương hay nắng. Mị cứ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi. Đây là chi tiết gây ám ảnh về một địa ngục trần gian ngột ngạt bức bối. Đó là một ẩn dụ, bế tắc về một cuộc đời, một số phận, con dâu mà như tù nhân khổ sai. Nhà văn đã cất lên tiếng nói nhân quyền của con người để vạch trần tố cáo tội ác của bọn chúa đất vô đạo ở miền núi đã làm khô cạn nhựa sống, làm tàn lụi cả niềm vui sống của những con người tha thiết yêu đời, yêu tự do.

Mị còn bị trói buộc bởi nhiều thế lực: thân quyền, cường quyền, nam quyền. Vì quyền lực mà cha con thống lí đã bắt Mị làm dâu gạt nợ. Ở nhà thống lí, Mị bị tước đoạt cả những quyền tự do tối thiểu. Mị không được đi chơi xuân trong khi A Sử đã có vợ hẳn vẫn đi chơi xuân, hắn còn trực rình bắt mấy người đàn bà nữa về làm vợ… Những thế lực vô hình thi nhau hù dọa Mị.

Trước đây, đã có lần Mị muốn chết nhưng không thể bởi lòng hiếu thảo không cho phép Mị quyên sinh. Giờ đây, khi không còn cái gì ngăn cản nữa thì Mị lại buông xuôi, sống vật vờ như cái xác không hồn. Chính lúc này, hoàn cảnh của người con gái ấy càng đáng thương hơn. Bởi trước đây, khi Mị muốn chết là muốn chống lại hoàn cảnh, đó là biểu hiện của lòng ham sống, còn giờ đây khi không tưởng đến cái chết có nghĩa là lòng yêu tha thiết cuộc sống đã không còn. Đời Mị lặng lẽ trôi đi. Ách áp bức dai dẳng và nặng nề của bọn thực dân chúa đất miền núi đã khiến cho Mị hoàn toàn tê liệt. Dưới ngòi bút của Tô Hoài, dù Mị là cô gái mang số phận khổ đau, dù cuộc sống của Mị trong nhà thống lí là những chuỗi ngày dài đau khổ thì ở Mị vẫn sáng lên những vẻ đẹp không thể bị mờ đi, mòn đi bởi những khổ đau của số phận. Mị vốn là một người con gái đẹp. Nhà văn không trực tiếp miêu tả mà gợi vẻ xinh đẹp ấy qua lời kể: “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” Mị còn có tài thổi sáo hay. Mỗi lần Mị uốn chiếc là trên môi, thổi là còn hay hơn thổi sáo “Trai làng nhiều người mê, nhiều đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác” Tài năng âm nhạc ấy báo hiệu vẻ đẹp tràn đầy của tâm hồn. Trái tim Mị đã bao lần rung lên trước những âm thanh, những tín hiệu hẹn hò.

Không chỉ xinh đẹp, Mị còn là người con hiếu thảo, khi cha mẹ Mị mang nợ nhà thống lí, Mị đã xin cha được làm nương thay cha trả nợ. Nhưng khi nguyện vọng không thành thì Mị đã báo hiếu cho cha bằng cả cuộc đời con gái tươi trẻ đẹp đẽ của mình.

Tưởng trừng sức sống trong Mị đã lụi tàn, nhưng không! Vượt lên trên số phận, hoàn cảnh sống khổ đau tủi nhục, trong chiều sâu dáng hình câm lặng héo úa kia vẫn tiềm tàn một sức sống mạnh mẽ. Sức sống ấy vẫn âm thầm, ấm nóng như một viên than hồng bị tro tàn bao phủ. Nó chỉ chờ dịp là bùng lên mạnh mẽ, dữ dội.

Sức sống tiềm tàng vốn có trong Mị, nó đa dạng và bí ẩn. Sức sống ấy ẩn ngay trong nỗi buồn, trong sự cam chịu, trong hành động phản kháng tìm đến nắm lá ngón tự tử ở thời gian đầu làm dâu gạt nợ nhà thống lí. Sức sống ấy bùng lên mạnh mẽ trong sự trỗi dậy của lòng yêu đời, khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân. Khát vọng ấy vốn bị vùi dập bấy lâu nay trong một tâm hồn chai sạn vì đau khổ và nó bất chợt cháy lên thật nồng nàn, xa xót trong đêm tình mùa xuân. Có một bước chuyển, bước ngoặt tâm lý rất lớn diễn ra trong tâm hồn Mị. Nhà văn không hề đơn giản trong miêu tả tâm hồn mà còn sự dẫn dắt chuyển biến bất ngờ, hợp lý. Sự chuyển biến tâm lý lớn lao ấy bắt nguồn từ nhiều duyên cơ. Trước hết là do đất trời vào xuân, lòng người rạo rực đón xuân: “Hồng Ngài năm ấy ăn Tết vào giữa lúc gió thổi cỏ gianh vàng ửng, gió và rét dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi, xòe trên những mỏm đá như những con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Bức tranh có tác động rất lớn đến tâm hồn Mị. Cùng với bức tranh xuân, một tác nhân nữa là hơi rượi “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát rồi say đến lịm người” Phải chăng, Mị đang uống cái đắng cay của phần đời đã qua, hay uống cái khát khao của phần đời chưa đến. Cuộc rượu tàn lúc nào Mị không hề hay biết, người về hết chỉ còn mình Mị trở lại giữa nhà. Thế rồi Mị nhớ lại ngày xưa, Mị còn trẻ trung, xinh đẹp, hồn nhiên. Mị khao khát hạnh phúc… Và cuối cùng có thể nói, tiếng sao có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị hồi sinh. Nhà văn Tô Hoài đã dụng công miêu tả tiếng sao. Thoạt đầu, xa, từ ngoài đầu núi vọng lại, Mị nghe tiếng sáo “Thiết tha bồi hồi”, Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Lát sau tiếng sáo “Văng vẳng gọi bạn đầu làng” lòng Mị đang sống về ngày trước. Rồi lòng Mị vẫn đi theo tiếng sáo gọi bạn yêu. Tiếng sáo nặng khát vọng hạnh phúc lớn dần, chiếm trọn vẹn tâm hồn Mị. Như vậy, trong đêm tình mùa xuân, hơi rượu và tiếng sáo gọi bạn tình, Mị đã vượt ra khỏi trạng thái tê dại, vô cảm bấy lâu nay để thức dậy, để hồi sinh Tô Hoài đã rất tinh tế khi miêu tả những yếu tố liên quan bên ngoài để tác động đến nội tâm nhân vật ở thời khắc này lòng Mị đầy mâu thuẫn, lòng Mị phơi phới trở lại, Mị muốn đi chơi xuân nhưng cũng chính lúc này: “Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại, nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Nghịch cảnh ấy cho ta thấy khi niềm khao khát sống hồi sinh thì tự nó sẽ có một mãnh lực, xung đột một mất, một còn với trạng thái vô nghĩa lý của thực tại. Ngòi bút của Tô Hoài đã lách sâu vào những khe kín của tâm hồn nhân vật để phát hiện những nét đẹp, nét riêng trong tính cách nhân vật. Sức sống tiềm tàng còn được thể hiện ở hành động đi chơi xuân. Từ ý nghĩ đã trở thành hành động. Mị chuẩn bị kỹ lưỡng, chăm chút, đường hoàng, Mị quấn lại tóc, xắn một miếng mỡ bỏ vào đèn, khêu đèn cho sáng. Hành động ấy cho thấy Mị như đang thắp lên ngọn đèn trong cuộc đời triền miên tăm tối của mình. Mị với thêm chiếc váy cổ hoa ở trong vách… Mị làm như một người tự do đường hoàng, không hề đếm xỉa đến sự có mặt của A Sử. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã khát vọng tình yêu càng bộc lộ mãnh liệt. Trong hoàn cảnh bị A Sử trói đứng, tóc Mị xõa xuống, hắn quấn luôn tóc Mị vào cột làm cho Mị không nói không nghiêng được. Nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ đang chật vật bất lực. Suốt đêm, Mị đau như dứt từng miếng thịt, lúc mê lúc tỉnh thế nhưng tâm hồn Mị vẫn mê mải đi theo tiếng sáo gọi bạn theo những cuộc chơi, những đám chơi. Như vậy, A Sử và thế lực tàn bạo ở miền núi có thể trói buộc được thể xác Mị nhưng không thể nào trói buộc được tâm hồn Mị, không thể nào vùi dập được sức sống bất diệt trong Mị. Chính trong đêm tình mùa xuân, ý thức về quyền sống đã trở về trong tâm hồn Mị. Có thể nói, sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân còn có những biểu hiện cảm động. Mị đã xót xa đồng cảm với những con người cùng cảnh ngộ. Buổi sáng âm u trong căn nhà gỗ, Mị bàng hoàng tỉnh giữa bốn bề im lặng, Mị xót thương những người đàn bà cùng cảnh ngộ như mình, không biết các chị vợ anh, vợ chú có còn ở nhà, không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được đi chơi hay là cũng đang bị trói như Mị “Mị nghẹn ngào khi nhớ lại câu chuyện về một người đàn bà cũng bị chết vì trói đứng ở nhà thống lí. Những biểu hiện của sự sống tiềm tàng trong đêm tình mùa xuân này chính là cơ sở tạo nên sự vùng dậy, tháo cũi sổ lồng của Mị trong đêm đông sau này.

Đỉnh điểm của sự sống tiềm tàng chính là sự vùng dậy của Mị trong đêm đông cùng hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ. Cả Mị và A Phủ hai con người đau khổ, có những nét tương đồng vì hoàn cảnh, số phận, đều là nạn nhân của nhà thống lí. Nếu Mị là con dâu gạt nợ nhà thống lí thì A Phủ là người ở trừ nợ vì đánh bại con quan làng năm ấy A Phủ chăn bồ ngoài rừng, vì mải bẫy nhím, chẳng may bị hổ vồ mất một con bò, vì thế A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng vào cột. Chính nỗi bất hạnh của A Phủ, chính sự tàn độc của cha con thống lí đã làm thức dạy tinh thần phản kháng của Mị. Mấy đêm đầu A Phủ bị trói, Mị vẫn trở dậy, vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, Mị chỉ còn biết ở với ngọn lửa, nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Chi tiết này khiến cho ta phải rùng mình trước một số phận bị đày đọa, bị vùi dập tới mức cực đoan.

Lại một đêm nữa, Mị trở dậy thổi lửa hơ tay. Khi ngọn lửa bùng lên cùng lúc Mị lé mắt trông xa thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở “một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” Đây là chi tiết đầu mối của sự đột biến trong tâm lý của Mị. Nhà văn Tô Hoài đã tỏ ra rất am hiểu những chuyển biến kỳ diệu trong tâm hồn nhân vật. Chính giọt nước mắt của chàng trai người Mông gan góc, quả cảm đã tác động trực tiếp đến Mị. Mị nhớ mình, thương mình ngày trước cũng bị trói đứng trong cái nhà này, tóc quấn vào cột, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được, đắng chát và bất lực, khác gì A Phủ bây giờ. Mị thương người giờ đây cũng bị đày đọa như mình. Mị thương những tôi tớ khác, lòng thương lớn dần thành nỗi hận, biến thành lòng căm thù cha con thống lí, “Chúng nó thật độc ác”. Cái thương, cái giận lớn dần lấn át nỗi sợ hãi, cuối cùng biến thành hành động Mị cầm dao, cắt dây cởi trói cứu A Phủ, cùng A Phủ chạy khỏi Hồng Ngài là hành động bộc phát nhưng vẫn nằm trong logic, sức sống nội tâm của nhân vật. Đó là đỉnh điểm của sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do, khát vọng về quyền sống đã bùng lên, tất cả tạo nên sức mạnh trong hành động tháo cũi xổ lồng của Mị và A Phủ. Mị không những cắt dây cởi trói cứu A Phủ mà còn cắt đứt sợi dây vô hình trói buộc cuộc đời Mị với nhà thống lí. So với Chị Dậu (trong Tắt Đèn), anh Pha (trong Bước đường cùng) hay Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên… thì kết cục của Mị đã tươi sáng hơn Mị đã vùng dậy, tự giải thoát bằng chính sức mạnh của mình.

Như vậy, qua vẻ đẹp về ngoại hình, tấm lòng hiếu thảo cùng sức sống tiềm tàng mãnh liệt, tất cả đã tạo nên một vẻ đẹp riêng của Mị – Một cô gái có số phận khổ đau nhưng luôn mang trong mình vẻ đẹp về cả nội tâm lẫn bên ngoài.

Để khắc họa thành công về số phận khổ đau và vẻ đẹp riêng có của Mị. Ở Mị nhà văn chú trọng lối văn miêu tả những diễn biến tâm lý trong thế giới nội tâm đa dạng, bí ẩn. Từ đó, khắc họa lên tính cách nhân vật. Điều đó rất phù hợp trong việc xây dựng nhân vật nữ tính. Bên cạnh đó, Mị còn được nhà văn thể hiện rất độc đáo mang phong cách tiêu biểu của người Mông âm thầm mà mãnh liệt, mộc mạc đơn sơ mà dữ dội khôn lường.

Qua tác phẩm, Mị hiện lên như một điển hình cho số phận khổ đau của đồng bào vùng núi Tây Bắc dưới ách cai trị của bọn thực dân, chúa đất miền núi. Đồng thời, nhân vật Mị cũng là điển hình cho bài ca về khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, ý thức vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do.

Tóm tắt truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài
Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài)
Giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)
Ý nghĩa chi tiết tiếng sáo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ) trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài

Xem thêm nhiều bài hơn tại : Đề Thi

Leave a comment