Cảm nhận đoạn Trao duyên (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)

0

Sau khi đã giải quyết xong thủ tục bán mình (Tờ hoa đã kí, cân vàng mới trao), lấy tiền lo lót cho xong vụ kiện (Họ chung ra sức giúp vì, lễ tân đã đặt, tụng kì cũng xong), Kiều đang chờ lên xe hoa theo Mã Giám Sinh. Đêm ấy Kiều bồi hồi thương cho Kim Trọng, tìm cách trả nghĩa nợ tình cho chàng. Đèn thắp sáng đêm, nước mắt đầm đìa. Nhân Thuý Vân thức dậy hỏi, Kiều bấy giờ mới cậy em thay lời và trao duyên cho em. Đây là đoạn thơ trữ tình độc nhất trong Truyện Kiều. Trước đây Tản Đà từng nhận xét: “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hon như vậy. Đoạn này thật lăm li, mà như thế mới hết tình sự”.

Nếu nói Nguyễn Du là nghệ sĩ tài hoa bậc thầy về miêu tả tâm lí nhân vật thì đoạn này là đoạn thơ tiêu biểu nhất, thần tình nhất, khiến cho các nhà phân tích, bình giảng trước nay không hết lời thán phục và ca ngợi. Ông Lê Trí Viễn đã có những lời phân tích, bình phẩm thấu đáo nhất đối với hai câu sau đây. Mở đầu đoạn trích Nguyễn Du viết:

“Cậy em, em có chịu lời”

Tại sao lại dùng “cậy” mà không dùng “nhờ”, ông Lê Trí Viễn giải thích ngoài lí do thanh điệu “trắc”, gây một điểm nhấn lắng đọng cho câu thơ, còn vì chữ “cậy” bao hàm cái ý hi vọng tha thiết của một lời đối với hai câu thơ, còn vì chữ “cậy” bao hàm cái ý hi vọng tha thiết của một lời dốì dăng (trông cậy), có ý nương tựa, gửi gắm, tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt. Nếu dùng “nhờ” thì bấy nhiêu nghĩa sẽ nhạt hết. Còn nói “chịu” mà không nói “nhận” cũng như vậy: “chịu” lời là một sự chấp nhận bắt buộc, còn “nhận” thì tuỳ lòng, mà trong trường hợp này Kiều muôn em không được từ chối đề nghị của mình. Lời lẽ thắt buộc được lựa chọn thật là chính xác, chặt chẽ.

“Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Cái yêu cầu em ngồi lên trên để Kiều lạy trước, thưa sau cũng là một ý nài ép như vậy. Nhưng bây giờ lại dùng lễ nghi để ràng buộc. Lời “thưa” rất trang trọng, ràng buộc nội dung nghiêm trang, trịnh trọng sẽ nói ở sau. Vừa tình vừa lễ như vậy thì Vân chối sao đặng?

Lời thưa của Thuý Kiều rất rõ ràng, vắn tắt, dứt khoát:

“Giữa đường đứt gánh tưong tư

Giao loan chắp mối to thừa mặc em!”

Người xưa xem tình yêu là một gánh nghĩa vụ, gánh nặng, cho nên nói gánh tương tư. Mà giữa đường đứt gánh thì dang dở vô cùng, không sao mang xách cho hết. Hình ảnh đã nói rõ tình trạng bất lực của Thuý Kiều. Mọi việc phó thác cho em gánh, ở đây dùng chỉ nối mối tơ dây tơ duyên. Đoạn trên có câu: “Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong”. Nhưng tơ duyên còn vướng đã đứt, đối với Thuý Vân, đó là mối tơ thừa. Thuý Kiều hiểu thấu cảm giác và tình cảm thiệt thòi của em nên nói thẳng ra luôn “mặc em”, có nghĩa là phó mặc cho em đó, dở hay em cũng phải gánh vác cho chị. Câu nói này cũng mang giọng điệu người chị phó thác cho em nữa, cho nên có nhiều sức nặng. Bổn cầu thơ đã nói hết tình trông cậy, uỷ thác và nài ép, không cho em chối từ.

Nhờ cậy xong Kiều mới nói lí do:

“Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu, tỉnh khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

Nội dung thông báo cụ thể, rõ ràng, nhưng sự trùng điệp ba chữ “khi”: khi gặp, khi ngày, khi đêm đã nói lên sự thề ước nhiều lần sâu nặng, không thể nuốt lời, nên phải nhờ em.

Từ đây Kiều chuyển sang phân tích ý nghĩa:

“Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ, thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.

Tuổi trẻ còn lâu dài, vì thương chị mà thay chị nốì tình với Kim Trọng thì chị dẫu chết cũng hả dạ, vì có được tiếng thơm là người có tình nghĩa với chàng. Nhưng điều đặc biệt là từ đây trở đi Kiều coi mình như đã chết, như người chết. Câu “Ngày xuân em hãy còn dài” có nghĩa là “Ngày xuân của chị đã hết rồi”, chị chỉ còn “thịt nát xương mòn” và “ngậm cười chín suối”, nơi cõi chết, chín suối (cửu tuyền) là nơi đất rất sâu, chỗ người ta mai táng người chết.

Nói xong lời thoả nguyện bình sinh và hàm ơn đối với em, Kiều liền trao vật kỉ niệm:

“Chiếc thoa với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ vật này của chung!”

Kim thoa là tặng vật đầu tiên Kim Trọng tặng cho Kiều khi nàng nhận lời. “Giờ Kim thoa với khăn hồng trao tay”. Tờ mây là tờ hoa tiên có vẽ vân mây, là tờ hoa tiên trên đó Kiều đã ghi lời thề (“Tiên thề cùng thảo mộc trương”). Lạ nhất là câu tiếp theo: “Duyên này thì giữ, vật này của chung!” Nhiều nhà bình luận Truyện Kiều đã nói rất đúng: Kiều trao duyên chứ không trao tình. Duyên đây là nhân duyên, duyên phận, cơ duyên, tức là sự run rủi của số phận cho hai người trai gái được lấy nhau. Nhưng vật kỉ niệm này là của chung – lời lẽ có vẻ như là Kiều còn muốn giữ lại cho mình, không muốn trao cả cho em. Nhưng xét cho kĩ thì Kiều đã nói đúng. Kiều trao kỉ vật, nhưng còn cái hồn của kỉ vật – tức mốì tình trao gởi, nơi đầu mày mối mắt, cái ngây ngất, nồng nàn, lời thề dưới trăng thì trao làm sao đặng? Nó thuộc về quá khứ, chôn sâu trong trái tim Kiều, cho nên chỉ có thể là của chung.

Nhưng kỉ vật này cũng không phải chỉ là kỉ vật tình yêu hai người: Xưa là của Kiều và Kim nay thành của Kim và Vân. Từ nay nó còn là kỉ vật làm tin nhắc nhở đến chị nữa đó, để em có được hạnh phúc thì cũng đừng quên chị.

“Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

Mất người, còn còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Cây đàn hồ ngày nào Kiều đàn cho Kim Trọng và mảnh trầm hương ngày nào tùng chứng kiến lời thề nguyền cũng để lại cho em, như là của tin. Đôì với chị chúng đã trở thành quá khứ xa xôi rồi (ngày xưa). Đến đây Kiều lại thây mình là người đã chết:

“Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ plúm này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”

Kiều đã mất hết hiện tại. Tương lai của nàng trông chờ vào lòng thương. Mai sau em đốt hương, chơi đàn (so tơ) – những lúc hạnh phúc, em hãy nhớ đến chị. Cái cách hình dung oan hồn bơ vơ của mình nơi mai hậu thật là thê thảm: Kiều sau này chỉ còn là ngọn gió vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ! Còn gì có thể gây lòng thương cảm hơn là gợi lên những hình ảnh của hư vô? Kiều lúc ấy đã chết, nàng chỉ còn có oan hồn, nhưng xin nhớ cho:

“Dạ đài cách mặt khuất lời,

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai”.

Kiều mang nặng lời thề, nhưng dù có tan tành thân xác phụ nữ mảnh mai như bồ liễu, nàng cũng quyết đền ơn đáp nghĩa (đền nghĩa) cho Kim Trọng. Lúc bấy giờ chị và em đã là người của hai thế giới khác nhau:

“Dạ đài cách mặt khuất lời,

Rảy xin chén nước cho người thác oan”.

Dạ đài là nơi âm phủ tăm tối. Em sẽ không trông thấy (khuất lời), em hãy rảy một chén nước cho người thác oan là chị. Kiều tuy tự nguyện hi sinh, bán mình chuộc cha, nhưng vẫn ý thức mình bị oan uổng, sau khi chết hồn oan không tan. Theo niềm tin tôn giáo cổ truyền thì nước trong là chất tinh khiết có thể tẩy rửa nổi oan khuất, làm cho oan hồn được mát mẻ.

Từ khi trao vật kỉ niệm cho dến giờ, Kiều như quên hẳn hiện tại, nàng chỉ sống với cái mai hậu hư vô của mình, vì nàng hi vọng em và chàng Kim Trọng mai hậu được hạnh phúc và mai đây nàng sẽ được thương đến. Hiện tại thì nàng chỉ là con số không.

“Bây giờ trâm gẫy, bình tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”.

Nhìn lại hiện tại Kiều chỉ thấy mất mát. “Trâm gẫy bình tan” là hình ảnh của tình duyên tan vỡ. Một lời kêu than, một lời tiếc nuôi: “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân” – Bao nhiêu là ái ân hò hẹn (đã “kể làm sao xiết muôn vàn” là nhiều lắm). Thế là đã hết! Kiều tự thấy có lỗi rất lớn với Kim Trọng, cho nên gửi lại chàng trăm lạy, nghìn lạy. Đây là lễ vong từ biệt trong lòng, câu “Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” thấm đượm, chua chát.

Từ câu “Bây giờ trâm gẫy bình tan” Kiều như chỉ nói với mình và Kim Trọng trong hiện tại, nàng quên hẳn Thuý Vân trước mặt mình, cũng giống như trước đó, nàng sông hẳn trong thế giới hư vô của mai sau.

“Phận sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.

Đó là lời oán trách, lời chất vấn số phận vô lí, nhưng nàng phải chấp nhận số phận: “Đã đành nước chảy hoa trôi lã làng”. “Nước chảy hoa trôi” là cảnh xuân đã hết, hoa rụng, tuyết tan, nước chảy đưa các cánh hoa trôi nổi, phiêu dạt. Kiều như thấy mình cũng là cánh hoa lìa cành, mặc dòng nước trôi, không làm chủ được mình nữa.

Hai câu cuối cùng là than với Kim, thương xót Kim, đau vì mình phụ Kim, một điều mà mình không muốn. “Thôi thôi” là tiếng than tiếc rẻ, là dằn vặt, “Thôi thôi” cũng là tiếng xác nhận sự phụ bạc của mình (như “Thôi thôi” vốn liếng đi đời nhà ma!), lời đau đớn ấy đã khiến Kiều ngất đi:

“Cạn lời hồn ngất máu say

Một hơi lặng ngất, đôi tay giá đồng”.

Đoạn trao duyên đây đúng là Kiều đã nói hết lời (cạn lời). Lời trao duyên nhưng nói như một lời trăn trối, lời vĩnh biệt. Trước lời trao là tình của mình, sau khi trao mình đã trắng tay. Trước khi trao mình là người sống, sau khi trao mình cầm bằng như đã chết, chỉ còn hồn oan, chín suối, dạ đày, ngọn gió. Trước khi trao Kiều sống với hiện tại, khi trao Kiều vừa sống với quá khứ và hiện tại. Nhưng khi trao xong Kiều chỉ sống với tương lai hư vô. Phải trở về hiện tại là lúc đớn đau, tan nát đến chết ngất – Nguyễn Du đã hình dung trạng thái tâm lí của Kiều. Lời của nàng là lời nói từ trạng thái ấy, không gian ấy. Cho nên lời nàng Kiều khi thì đôi thoại, khi thì độc thoại, khi thì nói với người trước mặt, khi thì nói với người vắng mặt.

Toàn bộ đoạn thơ là nỗi lòng đau đớn tan nát, thê thảm nhất. Mối tình sắp mất thì lời thê thảm. Đây đúng là đoạn văn lâm li nhất trong Truyện Kiều.

Xem thêm nhiều bài hơn tại : Đề Thi

Leave a comment