Nội dung chính, ý nghĩa nhan đề, bình giảng khổ thơ đề từ bài thơ Tiếng hát con tàu

0

Đề bài: Hãy nêu nội dung bài thơ “Tiếng hát con tàu” và giải thích ý nghĩa nhan đề đó của bài thơ. Bình giảng khổ thơ được lấy làm đề từ của bài thơ.

Bài làm

“Đi ta đi khai phá rừng hoang

Hỏi núi non cao đâu sắt đâu vàng… “

(Tố Hữu)

Năm 1960, miền Bắc bước vào kế hoạch “5 năm lần thứ nhất” xây dựng và phát triển kinh tế, vãn hóa. Trong bài thơ chúc Tết, Bác Hồ viết: “Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh”. Một phong trào cách mạng rộng lớn dâng lên động viên tuổi trẻ lên đường, đi đến mọi miền xa xôi của Tổ quốc, đến với chiến trường xưa với mơ ước biến Tây Bắc thành “hòn ngọc ngày mai của Tổ quốc (Phạm Văn Đồng).

Phong trào cách mạng rộng lớn đã khơi gợi cảm hứng trong tâm hồn nhà thơ Chế Lan Viên với bao nghĩa tình thắm thiết về một vùng đất “thấm máu” và đồng bào Tây Bắc thân yêu. Bài thơ “Tiếng hát con tàu”của Chế Lan Viên mang tiếng reo vui của thời đại được sáng tác vào thời gian này. Bài thơ được rút từ tập “Ánh sáng và phù sa” – một thành tựu thi ca xuất sắc của Chế Lan Viên.

Nội dung bài thơ “Tiếng hát con tàu”và ý nghĩa nhan đề đó của bài thơ.

Hình ảnh con tàu trong bài thơ là biểu tượng cho những cuộc lên đường đi tới những vùng đất xa xôi và thân yêu của đất nước. Thực tế cho đến ngày nay vẫn chưa hề có con tàu và con tàu lên Tây Bắc. Gắn “tiếng hát” với “con tàu” tạo thành nhan đề “Tiếng hát con tàu” để nói lên cảm hứng lãng mạn, niềm khao khát đi tới Tây Bắc, đi tới mọi miền xa xôi “vời vợi nghìn trùng” của Tổ quốc mà hiến dâng và phục vụ. Lên đường cùng với “con tàu”và “tiếng hát” với khát vọng đi xa, đi tới những chân trời mơ ước. Lên đường để vượt ra những cuộc đời quẩn quanh chật hẹp đến với cuộc sống rộng lớn của nhân dân: “Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp – Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?..”. Đến với Tây Bắc là trở về với nhân dân, đến với cội nguồn hạnh phúc, là đến với chiến trường xưa”nơi máu rỏ, tâm hồn ta thấm đất”. Là đến với những con người cần cù, dũng cảm, nghĩa tình như anh du kích, em liên lạc, bà mế “lửa hồng soi tóc bọc” nuôi giấu cán bộ mà “Trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”, đến với cô gái vùng cao “Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng…”. Đến với Tây Bắc là trở về với ân nghĩa thuỷ chung:

“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp tay đưa”.

Không chỉ là đất nước gọi lên đường mà chính là sự thức nhận của lòng mình vẫy gọi: “Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?”; là sự mong đợi của mẹ và em: “Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ…”. Phần cuối bài thơ là tiếng hát say mê, phấn chấn: “Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội – Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga…”. Đến với Tây Bắc là đến với chính mình, tự khẳng định mình:

“Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa

Nay trở về ta lấy lại vàng ta”.

“Tiếng hát con tàu” còn là khúc ca tâm tình của người nghệ sĩ chân chính tự nguyện đến với cuộc sống cần lao, đến với suối nguồn của niềm vui, là đến với ánh sáng và phù sa cuộc đời đang “đổi sắc thay da”. Tây Bắc sẽ là nơi ươm hạt giống, làm nảy mầm những mùa hoa đep của thi ca:

“Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con không mộng tưởng?

Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng?

Lòng ta cũng như tàu ta cũng uống

Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân.”

Có thể nói nhan đề “Tiếng hát con tàu” biểu trưng khá sinh động cho nội dung tình cảm chủ đạo của bài thơ. Cảm hứng chủ đạo ấy được mở rộng ra, nâng cao lên tầm suy tưởng triết lí, từ một vấn đề thời sự cụ thể, nhà thơ khẳng định một đạo lí sống đẹp, mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, tư cách công dân của người nghệ sĩ chân chính:

“… Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến

Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao”.

Đề từ là một hiện tượng ta thường bắt gặp đó đây. “Trường giang” của Huy Cận, “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân, một số bài thơ của Xuân Diệu trong “Thơ thơ” và “Gửi hương cho gió” đều có lời đề từ. Đề từ có lúc nói lên mục đích, động lực khơi nguồn cảm hứng, có lúc làm nổi bật cảm hứng chủ đạo bao trùm tác phẩm. Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”, khổ thơ đề từ khái quát ý nghĩa của toàn bài:

“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hóa những con tàu,

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?”.

Trước hết phải khẳng định đây là một hồn thơ lãng mạn, cất cánh tung bay. Mỗi câu chữ và hình tượng dạt dào cảm xúc. Cấu trúc câu thơ là những câu hỏi tu từ đã để lại trong lòng người nhiều ấn tượng mãnh liệt. Tây Bắc là miền tây thân yêu của Tổ quốc ta, “Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng”, nơi có nhiều tiềm năng, nơi có truyền thống anh hùng, nhân dân cần cù, dũng cảm và tình nghĩa, nhưng còn nghèo nàn lạc hậu. “Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc” – nó tượng trưng cho những vùng rừng núi bao la của đất nước thân yêu như Việt Bắc, Tây Nguyên… Đến với Tây Bắc là để lao đông và xây dựng, khám phá và sáng tạo. Chỉ có thể đến với Tây Bấc và mọi miền xa xôi khác với điều kiện “Khi lòng ta đã hóa những con tàu”. Lúc đầu là con tàu “đói những vành trăng” và về sau là con tàu “mộng tưởng”. Sự nhận thức ấy là động lực để lên đường, với bao niềm vui phấn khởi và hi vọng. Đến với Tây Bắc là để đền ơn đáp nghĩa, vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm công dân, vừa là để khơi nguồn cho mọi sáng tạo: “Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ”.

Cuộc sống xây dựng rộng lớn trên miền Bắc trong những năm 60 là sự khơi nguồn hạnh phúc, là ngọn nguồn của mọi sáng tạo nghệ thuật và thơ. Tràn ngập giữa một không gian bao la là sức sống và niềm vuỉ của thời đại, của hàng triệu con người:

Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát”. Không khí sôi động ấy được nói đến trong nhiều tập thơ cùng thời: “Đất nở hoa”của Huy Cận, “Gió lộng” của Tố Hữu:

“Sướng vui thay, miền Bắc của ta,

Cuộc sống tưng bừng đổi sắc thay da”.

(Trên miền Bắc mùa xuân”- Tố Hữu)

Thơ là hương sắc, là phù sa, là muối mặn cuộc đời. “Không có thơ đâu giữa lòng đóng khép”. Nghệ thuật chỉ có thể đơm hoa kết trái trong cuộc đời, khi người nghệ sĩ chân thành mở rộng lòng minh đón nhận ngọn gió thời đại, đem tâm hồn mình hòa nhập với cuộc sống của nhân dân. Khi “Tiếng con tàu” tâm tưởng nhà thơ hòa nhịp với tiếng hát rộn ràng “bộn bề” của Tổ quốc thì cũng là lúc người nghệ sĩ tự soi vào tâm hồn mình mà thấy được bóng hình quê hương xứ sở. Có thể nói đó là sự hóa thân kì diệu: “Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?”. Câu thơ vang lên đĩnh đạc tự hào. Một lần khác, ý tưởng cao đẹp này đã được tác giả “Ánh sáng và phù sa” diễn tả rất thơ:

“Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi vào

Thấy ngàn núi trâm sông diễm lệ”.

(Chim lượn trăm vòng)

Trong khổ thơ đề từ này có hai câu thơ tưởng như có sự mâu thuản: “Lòng ta đã hóa những con tàu” rồi lại “Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?” kì thực rất hợp lí, thống nhất một cách biện chứng trong quy luật phát triển của tư tưởng và tình cảm và của sự sáng tạo nghệ thuật. Câu trên nói lên sự thức nhận và động lực. Câu dưới nói lên sự hóa thân. Đó là mối quan hệ nhân quả giữa văn chương và cuộc sống.

Tóm lại khổ thơ đề từ nói lên khát vọng lên đường và niềm tự hào của nhà thơ nguyện đem tài năng để hiến dâng và sáng tạo vì sự phồn vinh Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Nó cho ta thấy bản sắc thơ của Chế Lan Viên: sáng tạo hình ảnh đẹp, mới lạ và ngôn ngữ sắc sảo. Nghệ sĩ và cuộc sống, cái tâm và cái tài, ngoại cảnh và nội và hướng ngoại, tất cả đều tìm thấy sự hòa hợp thống nhất trong thơ. Cái đẹp của thơ trước hết là cái đẹp của một tấm lòng trang trải mà ta cảm nhận được qua lời đẻ từ và những vần thơ dào dạt say mê trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”.

Khổ thơ trên là cảm hứng, là tình yêu lớn, là tấm lòng đẹp của nhà thơ: “Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?” — Tây Bắc là hình hài của Tổ quốc thân yêu. Yêu Tây Bắc cũng là yêu Tổ quốc. Tình cảm sâu nặng luôn luôn vang lên trong thơ Chế Lan Viên như một điệp khúc tự hào:

“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt

Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng

Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”.

Ngày nay, bài thơ “Tiếng hát con tàu” vẫn thắp sáng trong lòng chúng ta ngọn lửa thiêng liêng về tình yêu Tổ quốc. Tiếng hát ân tình thuỷ chung vẫn còn làm mê say lòng người. Vì nó là bài học đẹp nhất và sâu sắc nhất.

Xem thêm nhiều bài hơn tại : Đề Thi

Leave a comment