Cảm nhận về tác phẩm Sống chết mặc bay (3 mẫu)

0

Contents

Trong chương trình Ngữ văn lớp 7, học sinh sẽ được tìm hiểu về tác phẩm “Sống chết mặc bay” của nhà văn Phạm Duy Tốn.

Cảm nghĩ về tác phẩm Sống chết mặc bay – Mẫu 1

“Sống chết mặc bay” được xem là “bông hoa đầu mùa” của truyện ngắn Việt Nam hiện đại. Tác phẩm đã giúp người đọc cảm nhận được bức tranh về cuộc sống người dân, cũng như bộ mặt của giai cấp cầm quyền trong xã hội cũ.

Truyện mở đầu bằng một tình huống hết sức căng thẳng, gay cấn: mọi người đang cùng nhau gắng sức hộ đê. Thời gian lúc đó là gần một giờ đêm, nước sông Nhị Hà mỗi lúc một cao, trời mưa tầm tã không ngớt. “Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt như chuột lột”. Việc sử dụng biện pháp tu từ liệt kê kết hợp với các câu hội thoại, tiếng gọi, tiếng hô, thể hiện tình thế nguy ngập, căng thẳng, nghìn cân treo sợi tóc. Từ đó người đọc như bị cuốn vào để tiếp tục tìm hiểu xem diễn biến tiếp theo của câu chuyện.

Nhà văn tiếp tục khắc họa khung cảnh hàng trăm nghìn dân phu tìm đủ mọi cách để giữ cho con đê không bị vỡ trước sức tấn công khủng khiếp của nước lũ. Tác giả còn miêu tả bằng ngòi bút hiện thực thấm đẫm cảm xúc xót thương: “Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột. Tình cảnh trông thật thảm”. Đọc đến đây, có ai mà không cảm thấy xót xa thay cho những người dân đang rơi vào một hoàn cảnh thật là khổ sở, éo le. Không khí căng thẳng, hãi hùng. Sự đối lập giữa sức người với sức nước đã lên tới điểm đỉnh: “Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai cù cũng mệt lử cả rồi. Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất”. Những lời bình luận của nhà văn gợi cho người đọc cảm nhận được một thái độ đồng cảm, đau xót của tác giả.

Phạm Duy Tốn đã khắc họa hình ảnh tương phản. Nếu ngoài kia, dân phu đang loay hoay, tuyệt vọng chống chọi với nước để cứu đê là để chuẩn bị cho sự xuất hiện của cảnh tượng hoàn toàn trái ngược diễn ra trong đình. Câu hỏi tu từ như một lời mỉa mai, châm biếm: “Ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài, thế thời nào quan cha mẹ ở đâu?”. Và rồi câu trả lời đã bộc lộ sự chế giễu: “Thưa rằng: Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì”. Ở cảnh hai này, tác giả kể chuyện viên quan phủ mải mê chơi tổ tôm với đám quan lại dưới quyền và được lũ sai nha, lính lệ hầu hạ, cung phụng đến nơi đến chốn. Giọng văn tường thuật khách quan cụ thể, chi tiết nhưng đằng sau nó chứa chất thái độ mỉa mai, châm biếm và phẫn uất.

Trước nguy cơ đê bị vỡ, bậc “phụ mẫu chi dân” cũng đích thân ra “chỉ đạo” việc hộ đê, nhưng trớ trêu thay, chỗ của ngài không phải là ở giữa đám dân đen đang vất vả, lấm láp, ra sức cứu đê mà là ở trong đình với không khí, quang cảnh thật trang nghiêm, nhàn hạ: đèn thắp sáng trưng; nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Tác giả đã khắc họa cho người đọc về chân dung của quan lớn được hiện lên thật cụ thể, sắc nét: “Trên sập; mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy…”. Đặc biệt là quanh quan có đủ thầy đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì và chánh tổng cùng ngồi hầu bài. Quan nhàn hạ, ung dung, không mảy may quan tâm đến tình cảnh thảm thương của dân chúng đang diễn ra trên đê. Trong đình vẫn duy trì cái không khí uy nghiêm của chốn công đường, không hề có một chút liên hệ nào với cảnh hộ đê tất bật ngoài kia của dân phu. Như vậy, có thể thấy được thông qua việc dựng lên hai khung cảnh đối lập, Phạm Duy Tốn đã muốn tố cáo thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm, sống chết mặc bay của bọn quan lại phong kiến đương thời.

Đặc biệt, nhà văn còn cho thấy sự đam mê cờ bạc của tên quan phủ với đám nha lại dưới quyền diễn ra ngay trên mặt đê. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo đã nói lên sự tàn ác, vô liêm sỉ của kẻ cầm quyền. Những lá bài tổ tôm có một ma lực lớn đến độ nào mà khiến cho tên quan phủ quên hết trách nhiệm của mình, quên cả mối hiểm nguy, chết chóc đang đe dọa sinh mạng, tài sản của bao người. Đặc biệt là đoạn cuối truyện, tác giả vừa dùng ngôn ngữ miêu tả, vừa dùng ngôn ngữ biểu cảm để tả cảnh tượng vỡ đê và tỏ lòng ai oán cảm thương của mình đối với những người nông dân khốn cùng. Nhà văn muốn nhấn mạnh với người đọc rằng cuộc sống lầm than đói khổ của nhân dân không phải chỉ do thiên tai gây nên mà trước hết và trực tiếp hơn cả là do thái độ thờ ơ vô trách nhiệm, vô nhân đạo của những kẻ cầm quyền đương thời.

Như vậy, truyện ngắn Sống chết mặc bay đã đạt được mục đích lên án gay gắt tên quan phủ tàn ác. Đồng thời gợi lòng cảm thương sâu sắc trước cảnh nghìn sầu muôn thảm của nhân dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên. Truyện đã gây được những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc.

Cảm nghĩ về tác phẩm Sống chết mặc bay – Mẫu 2

Phạm Duy Tốn là một nhà văn sáng tác không nhiều, nhưng trong số các tác phẩm của ông, nổi bật nhất là truyện ngắn “Sống chết mặc bay”. Tác phẩm đã để lại nhiều giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật, giúp người đọc hiểu rõ hơn về bộ mặt thực dân phong kiến trong xã hội đương thời.

Tác phẩm được in lần đầu trên tạp chí Nam Phong, số 18, xuất bản năm 1918. Đây là một trong những truyện ngắn đầu tiên của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam được viết bằng chữ quốc ngữ. Nhà văn đã tập trung tái hiện một cách khá sinh động bức tranh đối lập giữa đời sống khổ cực của nhân dân với cuộc sống phè phỡn, xa hoa, hưởng lạc của lũ quan lại. Trước hết, người đọc sẽ cảm thấy ấn tượng đầu tiên về nhan đề của truyện. “Sống chết mặc bay” được lấy ý từ thành ngữ “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Nó đã cho thấy vô trách nhiệm của quan phụ mẫu với nhân dân. Dù dân có sống hay cái chết, quan cũng mặc kệ, không hề để ý, không hề quan tâm. Như vậy nhà văn đã gợi mở cho người đọc được nội dung của tác phẩm ngay từ nhan đề.

Tiếp đến khi đi sâu vào khám phá nội dung, người đọc có thể cảm nhận được nhiều ý nghĩa sâu sắc. Nhà văn đã khắc họa hai cảnh đối lập nhau: cảnh nhân dân hộ đê ngoài trời và cảnh các quan hộ bài trong đình. Mở đầu truyện là cảnh nhân dân hộ đê: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá, khúc đê làng X phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Đê còn hay mất ảnh hưởng đến đời sống của toàn bộ dân chúng và quan lại. Những tưởng trong hoàn cảnh đó, quan lại phải là người đứng “đầu sóng ngọn gió” cùng với nhân dân hộ đê. Nhưng sự việc diễn ra lại hoàn toàn đối lập với lẽ thông thường ấy.

Hoàn toàn trái ngược với hình ảnh bên ngoài, trong đình cách đó không xa, viên quan phụ mẫu của dân đang ngồi chơi bài. Nhà văn đã khắc họa một khung cảnh tráng lệ, yên bình đáng sợ: “trong đình, đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng”. Thái độ của quan phụ mẫu cũng chẳng có gì là lo lắng cho con đê ngoài kia. Quan chỉ nghĩ đến ván bài đang chơi dở Khi có người chạy vào báo với quan là đê đã vỡ: “Bẩm quan lớn, dễ đê vỡ mất rồi”. Thì quan lại đỏ mặt tía tai quay ra quát rằng: “Đê vỡ rồi! Đê vỡ rồi! Thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày”. Đối diện với hiện thực ấy, mức độ vô trách nhiệm của quan càng thể hiện rõ khi quan cho rằng mình đứng ngoài cuộc trong việc hộ đê. Giọng đe dọa của quan đã thể hiện ngài là người quen thói hống hách, quát nạt. Cho nên khi nghe tin đê vỡ, ngay lập tức ngài đổ trách nhiệm cho dân: “ông cách cổ, ông bỏ tù chúng mày”. Quan đã tự cho mình chẳng có liên quan gì trong sự việc này. Hơn thế nữa, quan lại tức còn tức giận vì ngườị nhà quê đã làm gián đoạn ván bài của mình. Ngay khi đuổi được anh ta đi khỏi, quan quay trở lại ván bài một cách sốt sắng: “Thầy bốc quân gì thẻ?” Đến khi ván bài ù, quan vỗ tay xuống sập kêu to. Ngài xòe bài, miệng vừa cười vừa nói: “Ù! Thông tôm, chi chi nảy! Điếu mày!”. Niềm vui của quan là niềm vui chà đạp lên bao sinh mạng của nhân dán, bao tiếng kêu cứu. Đam mê cá nhân của quan được thỏa mãn nhưng đánh đổi bằng bao nhân mạng và của cải của người dân. Cuối cùng khi con đê bị vỡ, “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!”. Đó lại là lúc quan sung sướng vì đã ù được ván bài. Sự đối lập này đã khiến người đọc cảm thấy đau đớn, xót xa thay trước tình cảnh bi thảm của nhân dân, căm giận thái độ thờ ơ và vô trách nhiệm của viên quan phụ mẫu.

Khi đọc truyện, người đọc đã cảm nhận sâu sắc về hoàn cảnh éo le của người dân, sự vô trách nhiệm của viên quan phụ mẫu. Sống chết mặc bay quả thật là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn.

Cảm nghĩ về tác phẩm Sống chết mặc bay – Mẫu 3

Phạm Duy Tốn là một trong số ít những người có thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại. Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” đã lên án gay gắt tên quan phủ “lòng lang dạ thú” và bày tỏ niềm cảm thương trước cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai.

Ấn tượng đầu tiên của người đọc chính là về nhan đề của tác phẩm: “Sống chết mặc bay” là một vế của câu tục ngữ dân gian “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi” ý muốn phê phán những hạng người vô trách nhiệm, ích kỷ, chỉ biết lợi ích của bản thân mà không quan tâm đến cuộc sống, thậm chí tính mạng của những người khác (trong câu tục ngữ là chỉ thầy thuốc). Qua cách đặt tên nhan đề là “Sống chết mặc bay”, nhà văn đã muốn phê phán, tố cáo những bọn có chức quyền, mang danh “quan phụ mẫu”, “cha mẹ” của dân nhưng lại vô trách nhiệm, vô lương tâm, mất hết nhân tính, thờ ơ trước sự sống còn của con dân. Không dừng lại ở đó còn là tấm lòng đồng cảm, xót xa cho số phận của nhân dân.

Khi đọc những dòng văn đầu tiên, người đọc như bị lôi cuốn vào câu chuyện. Tác giả đã xây dựng được một tình huống độc đáo.”Gần một giờ đêm, không gian (địa điểm) là khúc đê làng X, thuộc phủ X. Đồng thời miêu tả thời tiết lúc này “trời mưa tầm tã, nước càng ngày càng dâng cao”, “hai ba đoạn nước đã ngấm qua và rỉ chảy đi nơi khác”. Việc sử dụng nghệ thuật tăng cấp, qua đó diễn tả sức hung bạo của mực nước và điều đó đang đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân. Trong hoàn cảnh đó hàng trăm người vất vả, cố sức giữ đê: “Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, người vác tre, nào đắp, nào cừ… Khung cảnh náo loạn với tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ nhưng ai cũng đã mệt lử cả rồi”. Cuối cùng là một lời nhận xét ngắn gọn nhưng hoàn toàn đúng đắn: “Tình cảnh trông thật là thảm”. Nhà văn còn khéo léo bộc lộ thái độ của mình qua: “Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất”. Có thể thấy khung cảnh bên ngoài lúc này thật nhốn nháo, căng thẳng, con người dường như bất lực hoàn toàn. Đọc những dòng văn của Phạm Duy Tốn, người đọc cảm nhận được không khí khẩn trương, gấp gáp như chính mình đang được tham gia vào cuộc hộ đê vậy.

Tiếp tục, nhà văn lại xây dựng một khung cảnh khác, hoàn toàn đối lập với khung cảnh ngoài đê – khung cảnh trong đình. Đình nằm trên mặt đê, vững trãi và an toàn lắm. “Trong đình, đèn thắp sáng trưng, khói bay nghi ngút. Nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng”. Còn quan phủ cùng nhau lại đánh tổ tôm: “quan phụ mẫu uy nghi chễm chệ ngồi trên sập, say mê đánh tổ tôm”. Thật đau đớn thay khi một viên quan phụ mẫu lại không cùng nhân dân bảo vệ con đê, mà thản nhiên ngồi chơi bài? Đến khi có người chạy vào báo con đê sắp vỡ, viên quan phụ mẫu đáng kính còn “cau mặt, gắt: mặc kệ!”. Rồi sau đó vẫn không ngừng việc chơi bài. Khung cảnh trong đình thật náo nhiệt “thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ mẫu gọi: “Điếu, mày”; tiếng tên lính thưa: “Dạ”; tiếng thầy đề hỏi: “Bẩm, bốc”; tiếng quan lớn truyền: “Ừ”. Kẻ này: “Bát sách! Ăn”. Người kia: “Thất văn… Phỗng”, lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, khi cười, khi nói vui vẻ dịu dàng. Thật là tôn kính, xứng đáng với một vì phúc tinh…”. Những câu văn khiến người đọc cảm thấy phẫn nộ vì thái độ vô trách nhiệm của bậc làm quan phụ mẫu. Để rồi đến cuối cùng, sức người không chống nổi lại với sức thiên nhiên. Con đê vỡ, khiến cho nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi, lúa má ngập hết. Kẻ sống không có chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn. Một tình cảnh đáng thương, đau đớn biết bao. Vậy mà “Bấy giờ ai nấy ở trong đình, đều nôn nao sợ hãi. Thốt nhiên một người nhà quê, mình mẩy lấm láp, quần áo ướt đầm, tất tả chạy xông vào thở không ra lời:

– Bẩm… quan lớn… đê vỡ mất rồi!

Quan lớn đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng:

– Đê vỡ rồi!… Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?… Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?…”. Sự thờ ơ, vô trách nhiệm của viên quan phụ mẫu khiến cho chúng ta cảm thấy tức giận thay. Tình cảnh thưởng của người dân khi đê vỡ lại khiến cho chúng ta cảm thấy xót xa thay.

Như vậy, Phạm Duy Tốn đã vô cùng thành công khi sáng tác truyện ngắn “Sống chết mặc bay”. Truyện đã gợi cho người đọc cái nhìn chân thực về một bộ máy chính quyền quan lại trong xã hội xưa.

Xem thêm nhiều bài hơn tại : Đề Thi

Leave a comment