5 mẫu mở bài Tiếng mẹ đẻ nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức

0

Contents

Mỗi một bài văn phân tích tác phẩm đều có một cách mở bài riêng. Hôm nay dethihsg247.com xin gửi tới các em học sinh 5 mẫu mở bài Tiếng mẹ đẻ nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức hay nhất. Chi tiết các em xem ở dưới nhé.

Phân tích Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức

Mẫu mở bài số 1

Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức thuộc hệ thống các bài viết của Nguyễn An Ninh nhằm thức tỉnh tinh thần dân tộc bằng cách vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá nước ngoài vừa biết bảo vệ, gìn giữ và phát triển tiếng mẹ đẻ. Đây được coi là bài chính luận xuất sắc của ông với bút danh Nguyễn Tịnh đăng trên báo Tiếng chuông rè (1925).

Mẫu mở bài số 2

Là một nhà văn, nhà báo, nhà yêu nước nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nguyễn An Ninh đã để lại cho bạn đọc thế hệ sau nhiều bài báo, bài diễn thuyết, những bài chính luận đặc sắc với lối viết khúc chiết, trong sáng, không những có độ sâu về tư duy mà còn tràn đầy nhiệt huyết, tấm lòng yêu nước. Tác phẩm “Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức” đăng trên báo Tiếng chuông rè năm 1925 là một trong số những bài chính luận xuất sắc của ông.

Trong đoạn văn mở đầu bài viết của mình, tác giả Nguyễn An Ninh đã lên tiếng phê phán lối học đòi “Tây hóa”, “thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình” của nhiều người dân An Nam. Với tác giả, dường như, những người có thói học đòi nói tiếng Tây, cóp nhặt “những cái tầm thường của phong hóa châu u” ấy đang lầm tưởng rằng họ có thể trở thành giai cấp quý tộc, trở thành những người được đào tạo theo kiểu của phương Tây. Nguyễn An Ninh đã nhìn thẳng vào vấn đề và lên tiếng phê phán điều đó. Ông xem việc đó chính là biểu hiện cho “thái độ mù tịt về văn hóa châu u” mà thôi.

Mẫu mở bài số 3

Nội dung chính của bài chính luận Tiếng mẹ đẻ- nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức cho thấy Nguyễn An Ninh là người am hiểu sâu rộng trong lĩnh vực ngôn ngữ nói chung. Tác giả đã có những nhận xét tinh tế về việc người An Nam sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng nước ngoài (ở đây là tiếng Pháp); những lý giải thấu đáo và những giải pháp đúng đắn trong việc học tiếng nước ngoài của giới trí thức Việt Nam lúc bấy giờ.

Điều quan trọng nhất là bài chính luận đã nêu lên quan điểm đúng đắn của Nguyễn An Ninh về tiếng nói dân tộc trên nhiều phương diện. Ông chống lại thói Tây há lố lăng của không ít người An Nam lúc bấy giờ. Thói quen này làm tổn hại đến tiếng mẹ đẻ của dân tộc. Nguyễn An Ninh phê phán quan niệm sai lầm cho rằng tiêng nước mình nghèo nàn. Tuy đề cao tiếng Việt nhưng ông vẫn khuyến khích giới tri thức học tiếng nước ngoài.

Mẫu mở bài số 4

Nguyễn An Ninh (1900 – 1943), quê ở xã Mĩ Hoà, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh). Năm 1920, ông tốt nghiệp ngành Luật tại Đại học Xoóc-bon (Pa-ri). Sau đó, ông đi tìm hiểu một số nước châu Âu, năm 1922 trở về nư­ớc viết báo và diễn thuyết chống đế quốc. Năm 1939, bị kết án, đi đày ở Côn Lôn, ông bị hành hạ đến kiệt sức và chết trong tù.

Nguyễn An Ninh để lại nhiều bài văn chính luận đặc sắc, trong đó có bài Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (1925). Với tinh thần trách nhiệm của một nhà văn, nhà báo, ông viết bài báo với mục đích đánh thức ý thức dân tộc trong mỗi người Việt Nam. Ông đã dùng những lí lẽ sắc bén, lập luận chặt chẽ để chỉ ra và thuyết phục người nghe về ý nghĩa quan trọng của việc bảo vệ và phát triển tiếng Việt.

Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức là tác phẩm tiêu biểu cho thể văn chính luận, một thể văn coi trọng lí luận, trình bày những vấn đề có ý nghĩa xã hội rộng lớn. Ngay ở nhan đề, bài báo đã chỉ ra vai trò quan trọng và thiêng liêng của tiếng Việt, đó là : nguồn giải phóng của dân tộc. Bài báo có bố cục chặt chẽ, khoa học thể hiện khả năng tư duy logic của một nhà báo hoạt động chính trị; vì vậy, nó vừa có sự hấp dẫn của báo chí, vừa có tính thuyết phục, tư tưởng của một bài diễn thuyết chính trị.

Mẫu mở bài số 5

Nguyễn An Ninh (1899 – 1943) sinh ra ở quê mẹ – xã Long Thượng, huyện Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (nay là tỉnh Long An), lớn lên ở quê cha – xã Mĩ Hoà, Hóc Môn, Gia Định, nay là ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh. Thân phụ ông là nhà thơ yêu nước Nguyễn An Khương. Nguyễn An Ninh là một trí thức yêu nước có học vấn. Ông từng học đại học trong nước rồi sang Pháp học, đỗ Cử nhân Luật năm 1920. Ông từng tìm hiểu nhiều nước châu Âu và có quan hệ khá mật thiết với các nhà yêu nước nổi tiếng như Hồ Chí Minh, Phan Văn Trường.

Từ một trí thức Tây học, ông đến với chủ nghĩa Mác và những người cộng sản. Ông hoạt động cách mạng rất năng nổ, từng nhiều lần bị bắt giam, bị hành hạ và tù đày, cuối cùng ông mất tại Côn Đảo. Sự nghiệp và tên tuổi của Nguyễn An Ninh gắn với những buổi diễn thuyết sôi động và những bài báo nổi tiếng một thời cuốn hút thanh niên và dư luận trong cả nước. Là một trí thức tân tiến, ông phê phán mạnh mẽ đạo Khổng và đề cao tinh thần học hỏi văn hoá châu Âu để xây dựng một nền văn hoá đặc sắc riêng của nước nhà. Văn phong của Nguyễn An Ninh khúc chiết, trong sáng, vừa có độ sâu về tư duy văn hoá vừa tràn đầy nhiệt huyết của con người yêu nước gần gũi với đời sống và con người lao động.

Xem thêm nhiều bài hơn tại : Đề Thi

Leave a comment